Thơ thiền Việt Nam (Kỳ 3): Những bài sấm của Thiền sư Vạn Hạnh

Tượng Thiền sư Vạn Hạnh.
Tượng Thiền sư Vạn Hạnh.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN)- Trong bài kệ dạy để tự trước lúc viên tịch, Thiền sư Vạn Hạnh nhắc nhở rằng, việc tu hành cốt nhất nằm ở tu tâm. Nếu người tu tâm an ổn thì sẽ phát triển trí tuệ và khi có trí tuệ thì ta sẽ nhận ra chân lý trong đời tu hành...

Trong suốt cuộc đời tu hành của mình, Thiền sư Vạn Hạnh luôn tin rằng dù chúng ta tu hành theo cách gì thì cũng chỉ được an định thân, chỉ là sự yên ổn nhất thời. Bởi vậy, trong bài kệ dạy để tự trước lúc viên tịch, Thiền sư Vạn Hạnh nhắc nhở rằng, việc tu hành cốt nhất nằm ở tu tâm. Nếu người tu tâm an ổn thì sẽ phát triển trí tuệ và khi có trí tuệ thì ta sẽ nhận ra chân lý trong đời tu hành.

Những bài sấm

Thiền sư Vạn Hạnh là vị cao Tăng thời Lý, nối pháp thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi đời thứ 7. Thiền sư họ Nguyễn, sinh vào khoảng năm 938, quê châu Cổ Pháp (nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Gia đình có truyền thống thờ Phật. Từ thuở nhỏ ngài đã rất thông minh, học khắp tam giáo và khảo cứu nhiều kinh luận nhà Phật.

Năm 21 tuổi, ngài xuất gia cùng với Định Huệ Thiền sư, theo học với ngài Thiền ông tại chùa Kim Đài (huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

Từ góc nhìn của thiền nhân, thơ thiền cho chúng ta những trải nghiệm thú vị về tự nhiên, con người và xã hội cùng thế giới nội tâm của bậc giác ngộ.

Thơ thiền như một cầu nối giữa bậc giác ngộ, đưa tâm ta trở về hướng thiện, nhận thức thực tại để trân trọng và để biết sống có ý nghĩa hơn trong từng giây phút.

Thiền sư Vạn Hạnh thông cả ba tư tưởng: Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Tư tưởng chính của thiền sư là tu theo pháp “Tổng trì tam muội”. Ngài chuyên nghiên cứu sâu về tư tưởng bồ tát Long Thọ với tinh thần của “Trung Luận”.

Thiền sư Vạn Hạnh tư duy và luôn đặt ra các mối hoài nghi các vấn đề, rồi tư duy tìm cách khả thi nhất để giải quyết vấn đề đó. Pháp môn “Tổng trì tam ma địa” đỉnh cao là đạt đến Tam muội (Chánh định), đi đến đắc đạo.

Thiền sư Vạn Hạnh thừa kế dòng thiền Tỳ Ni đa Lưu Chi, dòng thiền này chủ yếu lấy tinh thần kinh “Tượng đầu tăng xá” làm yếu chỉ nghiên cứu và tu tập. Tinh thần trụ nới vô trụ. Tư tưởng này giống như tinh thần của Lục tổ Huệ Năng (638-713) trong kinh “Pháp Bảo Đàn”, với tinh thần “Vô niệm làm tâm, vô tướng làm thể, vô trụ làm gốc”.

Thiền sư Vạn Hạnh được coi là người có công lớn gây dựng nên vương triều nhà Lý, lập Lý Công Uẩn lên làm vua. Trong quá trình này, Thiều sư Vạn Hạnh luôn thường xuyến sử dụng các sấm ngữ truyền khẩu để tuyên truyền trong dân chúng. Để nhân dân biết rõ tình hình của triều đình và giới thiệu cho mọi người biết đến Lý Công Uẩn. Báo trước cho dân chúng nhà Lý lên ngôi thay nhà Lê. Có bài sấm như thế này:

“Gốc cây thăm thẳm

Bẹ lá xanh xanh

Hoa đào mộc rụng

Thập bát tự thành

Cung trấn trời hiện…”

Sách "Thiền Uyển tập anh" nói những loại sấm truyền và tiên tri ông dùng có rất nhiều thứ không kể hết được. Sách này kể ra một vài phương pháp đã dùng: Hồi Lê Ngọa Triều đang thi hành chính sách bạo ngược bị thiên hạ ghét bỏ, thì tại Cổ Pháp có một con chó trắng xuất hiện trên lưng nó có hai chữ “thiên tử” lấm tấm bằng lông đen. Thiên hạ bèn đồn rằng con chó là tượng trưng cho năm Tuất, và một bậc thiên tử sinh vào năm Tuất sẽ xuất hiện cũng vào năm Tuất (tức năm 1010).

Ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi, thiền sư ở trong chùa Lục Tổ nhưng đã biết trước, nói với người bác và chú của Thái Tổ rằng: “Thiên tử đã băng, Lý thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn. Trong trưa này, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Bác và chú vua Thái Tổ thấy lo bèn sai người đi dò tin tức, mới thấy lời thiền sư nói đúng.

Tuy nhiên, từ tinh thần trụ nới vô trụ nên sau khi đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, Thiền sư Vạn Hạnh đã bỏ tất cả về ở ẩn tu hành, không tham gia chính trị. Tuy nhiên, những khi nhà vua cần, ông vẫn giúp vua tư vấn chính sự, nhưng không màng công danh, không hưởng bất cứ quyền lợi nào, đây là tinh thần mang đạo vào đời nhưng không bị đời làm ô nhiễm.

Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) có bài kệ "Truy tán Vạn Hạnh Thiền sư", trong đó nhà vua đã tặng cho thiền sư danh hiệu “Chống gậy thiền trấn giữ kinh đô”. Trong những tháng năm biến loạn đầu thế kỷ X, Thiền sư Vạn Hạnh ngồi một mình bên dòng Tiêu Tương, đã kiên tâm gác nỗi đau riêng để lo nỗi đau chung, cho muôn dân được bình yên, no ấm theo đúng giáo lý của đạo Phật - “Phật tại Tâm”.

“Thị đệ tử”

Ngày Rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 9 (tức 30/6/1018), khi công hạnh đã viên mãn, Thiền sư Vạn Hạnh gọi đồ chúng lại dặn dò, đọc bài kệ rồi thị tịch. Bài thơ này được ghi chép trong cuốn sách Thiền uyển tập anh (1337), với tên gọi là “Thị đệ tử” (Bảo đệ tử), nhan đề này do người đời sau đặt. Bài kệ có nội dung như sau:

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô

Nhâm vận thịnh suy vô bổ uý

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”

Ngô Tất Tố dịch thơ:

“Thân như bóng chớp, có rồi không,

Cây cối xuân tươi, thu não nùng.

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”.

Bài kệ này nói lên sự vô thường của vạn vật và nhắc nhở mỗi chúng ta cần phải nhận thức, biết đúng về vô thường để làm chủ vô thường...

Thượng tọa Thích Thanh Điện và TS. Phạm Thị Thanh Hương đã phân tích rõ ràng từng câu chữ trong bài kệ này.

Cụ thể, trong câu thơ đầu tiên “Thân như bóng chớp, có rồi không”, bằng biện pháp so sánh, câu thơ nói về thân mạng của mỗi kiếp người, có đấy rồi lại không, cuộc đời con người tính đến trăm năm nhưng nhìn lại chỉ như một giấc mộng, như ánh chớp lóe lên rồi trở về miền vô biên vắng lặng.

Tất cả các yếu tố khi đủ duyên thì hợp thành thân mạng của mỗi chúng ta, nhưng cái thân mạng của mỗi chúng ta cũng như tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng... có hợp rồi lại có tan. Vì vậy, người tu tâm phải thường xuyên quán chiếu để thấy nó chỉ là hư vọng chiêm bao để đừng chấp, đừng phiền não khổ đau...

“Cây cối xuân tươi, thu não nùng”, có nghĩa rằng, vạn vật khi gặp đúng thời vận thuận lợi có thể vinh hiển lẫy lừng... cũng như các loại cây khi mùa xuân đến thì đâm chồi nảy lộc tươi tốt. Nhưng trong mùa thu thì rụng lá trơ cành... đó là vô thường, là lẽ dĩ nhiên. Cũng chính từ đó, dòng đời của vạn vật không ngừng biến đổi và cuối cùng lại trở về vô thủy vô chung... trở về vô ngã... theo cái trục luân hồi sinh tử tưởng như không bao giờ dừng dứt.

Khi người tu hành biết rõ cuộc đời là vô thường, vô ngã như vậy rồi thì không còn lo sợ, tham đắm, tiếc nuối hay phiền não nữa...

Thiền sư Vạn Hạnh từng nói: “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi” với ý dặn người tu hành sau khi giác ngộ được vô thường rồi thì tâm ta sẽ được bình yên. Điều này giúp người tu hành không vướng bận, không thương tiếc, sầu bi hay sợ hãi, không tức giận tham sĩ trước vô thường nữa.

“Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”, trong câu thơ cuối cũng bằng biện pháp so sánh, tác giả đã ví sự vô thường cái được, cái mất, cái thịnh suy đó cũng chỉ như giọt sương trên đầu ngọn cỏ buổi sớm. Cái thịnh suy đó cũng chỉ là mộng ảo, rất mong manh... nắng lên nó cũng sẽ tan trở về bản thể vô thường.

(Còn tiếp)

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.