Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Nói tới tư tưởng thiền của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Thiền sư Thanh Từ cho rằng: “Phong cách thiền của Thượng Sĩ quá siêu việt, không kẹt mắc trong hình thức đối đãi sai biệt. Với tinh thần siêu phóng qua lối đối cơ ứng đáp và thơ tụng của ngài ta thấy sự hiện lộ không thiếu vắng chỗ nào”.

Tinh thần nhập thế siêu việt

Trong cuốn Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục có nói rõ: “Tuệ Trung Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Ðại Vương và là anh cả của hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Ðại Vương mất, hoàng đế Trần Thái Tông cảm nghĩa phong cho thượng sĩ tước Hưng Ninh Vương”.

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) có tên thật là Trần Quốc Tung, ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Thời trẻ, ông không thích công danh, chỉ ham nghiên cứu về Thiền. Ông học đạo với Thiền sư Tiêu Dao, vừa thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ.

Lớn lên, Tuệ Trung được cử trấn đất Hồng Lộ, tức là Hải Dương bây giờ. Ông có công hai lần trong việc ngăn giặc Bắc xâm lăng. Sau được thăng chuyển giữ chức tiết độ sứ trấn giữ hải đạo Thái Bình, ông lui về ấp Tịnh Bang (nay là huyện Vĩnh Lại, làng Yên Quảng) và đổi tên là Vạn Niên, tự hiệu là Tuệ Trung. Tại thực ấp, ông dựng lên Dưỡng Chân Trang làm nơi tọa thiền và tu niệm.

Tuệ Trung vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông được vua Trần Thánh Tông nể do kiến thức uyên bác về nội ngoại điển, được vua tôn làm đạo huynh. Vua Trần Thánh Tông rất khâm phục đạo học của Tuệ Trung, chính vua là người đầu tiên gọi ông là Thượng Sĩ - tương đương như Bồ tát.

Về con người của Tuệ Trung Thượng Sĩ, đương thời Thiền sư Pháp Loa Đệ nhị tổ Trúc lâm đã có lời tán thán: “Thượng Sĩ vốn khí lượng thâm trầm, phong thần hòa nhã. Thượng Sĩ yêu chuộng cửa không từ lúc còn để chỏm”. Qua tìm hiểu nghiên cứu về Thượng Sĩ, Hòa thượng Thích Minh Tuệ thì nhận định: “Tất cả thi tụng của Thượng Sĩ hầu như bài nào cũng toát lên tư tưởng thiền. Qua 49 bài tụng được thể hiện trong (Ngữ lục) đều ôm chứa tinh thần thiền nhập thế kỳ lạ vượt qua mọi kiến chấp để đạt tới bến bờ giải thoát rốt ráo”.

Tượng Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Tượng Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Nhờ sớm ngộ lý thiền, không câu nệ khái niệm thiên chấp, đây là thứ trở ngại cho con đường thể nhập lý sắc, thế nên Thượng Sĩ đã tự tại trong mọi tình huống. Để chứng minh cho tinh thần này, theo sử liệu được biết: “Một hôm, Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mở tiệc mời Thượng Sĩ vào cung dự, thức ăn trên bàn có cả chay và mặn. Thượng Sĩ đã ăn thịt. Hoàng Hậu hỏi “Anh tu thiền mà ăn thịt, làm sao thành Phật được? Thượng Sĩ trả lời: “Phật là Phật, anh là anh, anh không cần thành Phật, Phật không cần thành anh”. Em chẳng nghe cổ đức nói: “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?”.

Lại có lần, trong một bữa tiệc, Vua Nhân Tông nhớ lại chuyện ăn thịt cá và tính cách “hòa lẫn thế tục” của Tuệ Trung, liền làm bộ ngây thơ hỏi một cách gián tiếp: “Bạch thượng sĩ, chúng sinh quen cái nghiệp ăn thịt uống rượu thì làm thế nào mà thoát khỏi tội báo?”

Tuệ Trung đã trả lời như sau về vấn đề tội báo: “Nếu có người đang đứng xây lưng lại, thình lình vua đi qua sau lưng, người ấy không biết, cầm một vật gì ném nhằm vua. Thử hỏi: Người ấy có sợ không, ông vua có giận không? Nên biết hai việc ấy không dính líu gì với nhau vậy.”

Một lần khác, Vua Nhân Tông hỏi về tông chỉ thiền phái của Tuệ Trung. Ý của Nhân Tông là muốn tìm hiểu bí quyết giác ngộ mà Tuệ Trung đã được thiền sư Tiêu Diêu trao truyền, Tuệ Trung nói:

“Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác”. Lời nói ấy khiến Nhân Tông thấy được ánh sáng của thiền đạo.

Ngày thị tịch (ngày cư sĩ qua đời), Tuệ Trung không nằm trong phòng riêng mà cho kê giường nằm ở Dưỡng Chân Trang, giữa thiền đường lớn. Ông nằm xuôi theo kiểu cát tường, mắt nhắm. Những người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên. Ông mở mắt ngồi dậy, bảo lấy nước rửa tay súc miệng rồi quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường nhiên, sao lại buồn thảm luyến tiếc để cho chân tính ta náo động?”. Nói xong thì tịch một cách êm ái. Ðó là vào ngày mồng một tháng Tư năm Tân Mão (1291).

“Sống chết là lẽ thường mà thôi”

Bởi luôn tâm niệm “Sống chết là lẽ thường nhiên” mà Tuệ Trung Thượng Sĩ đã mang luôn tư tưởng đó vào việc tu tập và trong số 49 bài tụng trong Thượng Sĩ Ngữ Lục, có một bài với tựa đề: “Sinh tử nhàn nhi dĩ” - “Sống chết là lẽ thường mà thôi”, được coi là chứa đựng tinh thần thiền nhập thế khai phóng khá sâu sắc. Bởi nó phản ánh rõ nét tư tưởng Thiền tông hay còn có tên khác là Như Lai Thanh tịnh thiền của Thượng Sĩ: “Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi / Bồ-tát nói pháp ta nói thực”.

Bài tụng này có 20 câu. Nội dung đề cập một vấn đề lớn, đó là chuyện sinh tử của con người. Ở đây chúng tôi xin phép được đề cập đến 4 câu thơ cuối của bài thơ để phần nào thấy được tư tưởng phóng đạt của Tuệ Trung Thượng Sĩ về chuyện sinh tử của đời người.

“...Đến nhà thôi chớ hỏi đường chỉ

Thấy trăng tìm gì ngón tay ấy

Kẻ ngu sống chết mãi lo âu

Người trí suốt thông nhàn thôi vậy”

Để thấu hiểu được ý tứ sâu xa của Thượng Sĩ, Thượng tọa Thích Thanh Điện và TS Phạm Thị Thanh Hương đã phân tích từng câu thơ như sau: “Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi”. Vì chưa đến được nhà nên còn hỏi, hiểu theo nghĩa thông thường là như vậy. Tuy nhiên, thiền sư chỉ mượn cái thông thường để muốn nói về trí giác ngộ của người tu thiền.

Dù chỉ là bậc cư sĩ nhưng Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn được người đời kính trọng và nể phục về Phật đạo của mình. (Ảnh minh họa).Dù chỉ là bậc cư sĩ nhưng Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn được người đời kính trọng và nể phục về Phật đạo của mình. (Ảnh minh họa).

Bằng phương pháp ẩn dụ, thiền sư nói Nhà ở đây nhằm muốn chỉ cái tâm không chân thật thường hằng nơi chính mình. Nhà cũng có thể được hiểu là Phật. Đến với Phật, gặp được Phật đó chính là nhà, là bến bờ an lạc, bình yên. Phật không ở đâu xa, cũng không phải đi đâu để tìm kiếm, mà Phật ở ngay nơi chính mình. Đó là tâm không - tâm thanh tịnh không uế nhiễm, tâm không vọng niệm. Khi chúng ta tìm được đến tâm không nơi chính mình rồi cũng có nghĩa là ta đã về đến nhà rồi, biết nhà rồi. Biết rồi thì không phải mong cầu, không phải loanh quanh tìm kiếm ở đâu nữa...

“Thấy trăng tìm gì ngón tay ấy”, ý câu thơ muốn nói, kinh luật Phật hay giáo lý Phật như ngón tay đề chỉ dẫn chúng ta đến bến bờ niết bàn. Và niết bàn ở đây được tác giả hiện thực hóa bằng Mặt trăng. Phật nói cuộc đời là vô thường, mỗi người có cái chân thường hằng không thay đổi, hiểu rằng vô thường ở đời như là chiêm bao để không còn dính chấp. Hiểu không phải để hiểu rồi để luận bàn mà là để thấy, biết bản thể của vạn vật, các pháp đều là vô ngã không có bản thể xác định để không còn vướng bận và để giải thoát. Vì vậy, cũng như nếu đến nhà rồi, biết đường rồi thì không phải hỏi đường, hỏi nhà nữa. Thấy trăng rồi thì không phải dùng ngón tay để chỉ nữa.

“Kẻ ngu sống chết mãi lo âu/ Người trí suốt thông nhàn thôi vậy”, câu thơ có thể hiểu mang ý nghĩa kẻ ngu thì sống lo âu chết cũng lo âu, người trí giác ngộ thì sống bình an, ra đi cũng bình an. Bởi vậy, ở đời con người đừng quá coi nặng chuyện sống chết, bởi nó chỉ là quy luật tự nhiên, không ai có thể trốn tránh, cũng không thể thay đổi. Nếu chỉ nghĩ về chuyện sinh tử mà sinh ra lo âu, sống một đời dằn vặt, sợ hãi những điều không thể thay đổi thì thật phí hoài, ngu ngốc.

Và sau cùng, con người phải nhận ra rằng, mọi hiện tượng của thế gian, cứ thế tiếp tục trôi chảy không ngừng, sự tồn tại và hủy diệt của mọi sự vật và của chính ta nữa cũng nằm trong dòng sông vô tận ấy. Vậy thì, tại sao ta phải sợ sống chết nhỉ? Thay vì lo âu tới chuyện sống chết thì có lẽ bản thân mỗi người nên sống trọn vẹn, phấn đấu từng ngày, sống tốt từng ngày để khi ra đi không phải hối tiếc.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ cho rằng: “Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta thấy rõ sự sống chết không thật. Vì sống chết của thân này không thật, nên địa ngục, thiên đường, phiền não, Bồ-đề ... đều không thật. Thấy tất cả không thật, nên an nhàn trước sống chết. Khi đã nhận ra Pháp thân là Thể chân thật không hình tướng không sanh không diệt, không đến không đi, không phải không quấy, giống như người tới nhà, người thấy mặt trăng, không còn quan ngại, thấy việc sống chết chỉ là việc nhàn thôi”.

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.

Bát cơm quả trứng đưa người về bên kia núi

Bát cơm quả trứng đưa người về bên kia núi
(PLVN) - Quê tôi gọi bát cơm quả trứng cúng người vừa mất là: “cơm đặt đầu” nghĩa là bát cơm đặt phía trên đầu giường người vừa mất. Bát cơm đó có ý nghĩa vô cùng lớn lao, nên người Việt đã gìn giữ, duy trì qua nhiều ngàn năm không mất.