Người thầy được mệnh danh là “cụ tổ ngành giáo dục Nam Kỳ”

Danh sư Võ Trường Toản được thờ tại đình cổ Chí Hòa, hẻm 475 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, TP HCM.
Danh sư Võ Trường Toản được thờ tại đình cổ Chí Hòa, hẻm 475 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, TP HCM.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Người đầu tiên đặt nền móng cho sự học, gieo mầm tri thức cho đất Gia Định nói riêng, Nam Bộ nói chung là cụ Võ Trường Toản – người thầy đức độ tài ba, lỗi lạc thế kỷ 18.

Dù ở ẩn dạy học giữa cuộc loạn binh đao nhưng học trò của ông hàng trăm người đều thành danh, trong đó nhiều người trở thành công thần triều Nguyễn. Vì những công lao và sức ảnh hưởng lớn mà người đời tôn kính xưng tụng ông là “Vạn thế sư biểu”, “Kẻ sĩ Gia Định”, “Sùng đức xử sĩ”.

Ở ẩn rèn dạy nhân tài

Dù được xem là một nhà nho lớn nhưng nhiều tài liệu cho rằng chưa rõ năm sinh danh sư Võ Trường Toản, cũng có ý kiến cho rằng ông sinh vào năm 1709. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí”, tổ tiên Võ Trường Toản gốc ở miền Trung, sau di cư vào Nam theo làn sóng chung, được khởi phát mạnh mẽ kể từ năm 1623, thời điểm người Việt chính thức vào xứ Đồng Nai, Gia Định lập nghiệp.

Theo sách “Địa chí Bến Tre” thì Võ Trường Toản sống vào thế kỷ 18, người làng Hòa Hưng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, nay là hai bên đường Cách Mạng Tháng Tám ở quận 3 và 10 của TP HCM. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong cuốn “Tạp ghi Việt Sử Địa” cho rằng, Võ Trường Toản không làm quan cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn, sống ẩn dật với chính quyền nhưng không ẩn dật với xã hội.

Võ Trường Toản mở trường dạy học hàng trăm học sinh mà khuôn viên nay là đình Chí Hòa trong con hẻm đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, TP HCM. Điều tiến bộ cho tới ngày nay vẫn còn giá trị trong lối dạy học của ông, là ông không rơi vào lối dạy máy móc, giáo điều mà chủ trương lấy lối học “nghĩa lý để giáo hóa”.

Như khi giảng về sách Đại học, một trong Tứ thư, ông nói rõ: “Sách Đại học một nghìn bảy trăm chữ, tán ra gồm vô số sự vật, tóm lại còn 200 chữ, tóm nữa thì còn một chữ, tóm lại nữa một chữ cũng không”. Đại ý căn dặn học trò cần thấu triệt nội dung sách chứ không nên học vẹt câu chữ, cách dạy ấy thường gọi là “Tri ngôn dưỡng khí”. Tri ngôn là hiểu lời, còn dưỡng khí là nuôi dưỡng khí phách, muốn có được khí phách phải tập nghĩa, tức làm việc nghĩa, cống hiến cho nghĩa lớn.

Lăng mộ cụ Võ Trường Toản ở Ba Tri, Bến Tre.Lăng mộ cụ Võ Trường Toản ở Ba Tri, Bến Tre.

Phan Thanh Giản – vị quan đại thần triều Nguyễn có một bài văn bia bằng chữ Hán soạn năm Đinh Mão (1867), tóm tắt về tính cách, con người Võ Trường Toản, tạm dịch: “…Tiên sinh họ Võ, húy Trường Toản; đời trước hoặc nói là người Thanh Kệ (Quảng Đức), hoặc nói là người Bình Dương (Gia Định), trước thọ nghiệp cùng ai chưa rõ. Chỉ biết sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn, có thuật nghiệp thâm uyên thông đạt”.

“Xảy hồi loạn Tây Sơn, tiên sinh ẩn trú mở trường dạy học, thường học trò tới mấy trăm. Ông Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất. Bậc thứ nhất là chu công Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhân Tịnh. Bậc danh sĩ là ông Chiêu, ông Trúc, nhà ẩn dật, ngoài ra không thể kể hết được. Các ông ấy đều gặp hồi phong vân, thời trung hưng triều Gia Long đứng vào bậc tôi hiền, có người hoặc sát thân đề làm nên điều nhân, hoặc quên mình để trọn tiết nghĩa, thảy đều nên công nghiệp lớn trong đời”.

“Lúc ngự vào Gia Định; đức Thế Tổ Cao Hoàng đế hằng triệu tiên sinh tới ứng đối. Lại nghe tiên sinh học rộng khắp các kinh, và sở trường nhất một bộ Tứ thư. Ông Chiêu, nhà ẩn dật là bậc túc học được theo tiên sinh học thấu nghĩa “tri ngôn, dưỡng khí”… Sở học của tiên sinh. Thật là rộng lớn mà tinh vi vậy, dẫu đọc bất cứ ngàn muôn kinh sách nào cũng rõ nghĩa lý được. Tiên sinh không hứng ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp”.

“Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều bậc nhân tài mà còn truyền thuật, giảng luận trau giồi về sau, tới nay dân gian trong sáu tỉnh Nam Kỳ, tỏ lòng trung nghĩa, cảm phát dám hy sinh tới tính mạng, xét ra tuy nhờ đức thân nhân của quân vương nhuần gội, cố kết nhân tâm, nhưng nếu không có công đức mở mang huấn dục của tiên sinh từ thuở trước thì làm sao có được nhân tâm như thế…”.

Nam Bộ thời Võ Trường Toản là vùng đất mới, lưu dân tứ xứ lập nghiệp, nhu cầu bức thiết cần những người tri thức để quản trị xã hội, định hình văn hóa, hướng lòng dân về một mối, phát triển toàn diện lâu dài. Thế nhưng với những người chân lấm tay bùn, “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó” thì chuyện nhân nghĩa sao bằng chuyện cái ăn, cái mặc.

Ấy thế mà Võ Trường Toản cùng những học trò của mình, bằng đức độ và tài năng lại có thể khai thông đạo học, mở mang tri thức xứ sở, giáo hóa dân chúng, làm cho miền Nam trở nên đoàn kết, gắn bó với quốc gia, trung nghĩa liều mình khi nước mất nhà tan.

Trường đại học Võ Trường Toản ở Hậu Giang.

Trường đại học Võ Trường Toản ở Hậu Giang.

Người thầy của giới sĩ phu Nam Bộ

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu từng viết rằng: “Sự thực, Ngô Tùng Châu cũng là tay văn học kiệt xuất, tiếc rằng chết sớm, nên đời sau ít nói tới. Là học trò đầu hạng của Võ Trường Toản, ông rất được Nguyễn Phúc Ánh phục tài và tin dùng. Bởi vậy, sau khi được thăng chức Tham tri bộ Lễ, ông còn được cử làm phụ đạo dạy Đông cung Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh) mà lâu nay do thầy Bá Đa Lộc kèm dạy…”.

Những học trò xuất sắc mà nổi tiếng nhất lúc bấy giờ của cụ Võ Trường Toản là “Gia Định tam bảo” hay còn gọi “Gia Định tam gia”, tức ba ông Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh - 3 quan văn đại thần đắc lực của vua Gia Long, có nhiều công lao đối với sự phát triển của Nam Bộ xưa. Thơ văn của họ được in thành sách Gia Định tam gia thi cập còn truyền đến nay.

Chẳng những các học trò chịu ảnh hưởng sâu sắc, những người thuộc thế hệ sau như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Trương Định, Nguyễn Hữu Huân... cũng được cho là ít nhiều chịu ảnh hưởng về đạo đức, khí chất của nhà giáo Võ Trường Toản. Họ đã giữ tròn tiết tháo khi nước nhà bị xâm lược, không làm hổ thẹn danh tiếng sĩ phu Nam Bộ.

Võ Trường Toản còn được đánh giá là một nhà thơ lớn mặc dù những biến cố lịch sử gần như làm thất lạc gần như toàn bộ sáng tác của ông. May trong tàng thư còn lưu giữ một bài phú “Hoài cổ” với 24 đối câu, thể hiện quan niệm về đời, về người mà Võ Trường Toản chứng kiến trong giai đoạn lịch sử đầy biến động.

Ông nhắc chuyện cũ với những điển tích, để giáo huấn người đời “lòng nhân nghĩa” và trong dâu bể cuộc đời chỉ có lòng nhân nghĩa mới là thứ trường tồn: “Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà tàn héo; hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời. Cho hay vực thẳm nên cồn; khá biết gò cao hóa bể. Quán âm dương rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm; đò tạo hóa đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến. Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng, lênh đênh bóng nguyệt dòng sông...”.

Võ Trường Toản mất ngày mồng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý (27-7-1792) tại làng Hòa Hưng, được an táng tại đây. Hay tin, chúa Nguyễn Ánh cảm mến, tiếc thương, ban danh hiệu là “Gia Định xử sĩ Sùng Đức Võ tiên sinh”, tức bậc xử sĩ họ Võ, người Gia Định, sùng về đức độ.

Và đôi liễn truy điệu: “Triều hữu huân danh, bán thuộc Hà phần cựu học; Trời Nam phong giáo, đề khâm Nhạc Lộc dư uy”. (Tạm dịch: Những người có danh ở triều đình, một nửa thuộc về đất học cũ Hà phần (đất Bắc); Giáo dục văn hóa đất phương Nam, ai cũng phục cái uy lớn của Nhạc Lộc (Võ Trường Toản).

Tài năng và đức độ của thầy Võ Trường Toản - người thầy của bao lớp thầy vẫn được hậu thế truyền đời, khắc ghi. “Vạn thế sư biểu”, “Kẻ sĩ Gia Định”, “Sùng đức xử sĩ”... là những danh hiệu mà người dân Nam bộ dành tặng cho ông đủ để nói lên hết lòng ngưỡng mộ, niềm tự hào về một người thầy đã làm rạng danh cho xứ sở này.

Năm 1867, hài cốt của Võ Trường Toản được rước về làng Bảo Thạnh, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Ba Tri, Bến Tre). Di hài vợ cùng con gái cũng được cải táng cạnh mộ của ông, được công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1998. Tên của ông được đặt cho một đại học ở tỉnh Hậu Giang, nhiều trường phổ thông khắp Nam Bộ. Riêng ở TP HCM, Võ Trường Toản là giải thưởng thường niên vinh danh những nhà giáo tiêu biểu của thành phố suốt hơn 20 năm qua.

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.

Bát cơm quả trứng đưa người về bên kia núi

Bát cơm quả trứng đưa người về bên kia núi
(PLVN) - Quê tôi gọi bát cơm quả trứng cúng người vừa mất là: “cơm đặt đầu” nghĩa là bát cơm đặt phía trên đầu giường người vừa mất. Bát cơm đó có ý nghĩa vô cùng lớn lao, nên người Việt đã gìn giữ, duy trì qua nhiều ngàn năm không mất.