Truyền thuyết về kho báu khổng lồ của vua Voi (kỳ 3)

Lăng mộ vua Voi Y Thu ở Tây Nguyên
Lăng mộ vua Voi Y Thu ở Tây Nguyên
(PLVN) - Cho đến tận ngày nay, nhiều người trong dòng họ nhà K’Nul vẫn tin rằng vị “Vua voi” Y Thu (SN 1829, ông tổ của nghề săn bắt và thuần hóa voi-PV) giàu có đến mức phải xây cả một cái kho để chứa vàng bạc, ngà voi cùng vô vàn trang sức quý hiếm. Tuy nhiên, sau ngày Y Thu mất đi cùng với sự tàn phá của chiến tranh đã khiến kho báu khổng lồ đó mất tích giữa những cánh rừng hoang sơ, bí ẩn.

Xây kho khổng lồ để chứa vàng bạc 

Để nghe tiếp câu chuyện về vị “Vua voi” lừng danh Bản Đôn, chúng tôi tìm gặp bà H’Nguă Byă (SN 1954, cháu gái đời thứ tư, người cai quản khu lăng mộ Y Thu K’Nul). 

Trong căn nhà giàu có, vừa bề thế vừa hiện đại, bà H’Nguă Byă cho biết: Sau khi trở thành Vua Voi, Y Thu chú ý đến việc mở đất và mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Với danh tiếng, sự uy tín và tài năng săn bắt, thuần dưỡng voi rừng, ông đã biến “vương quốc” của mình trở thành trung tâm buôn bán trao đổi voi của toàn vùng Đông Dương. 

Những con voi ở Buôn Đôn không chỉ được bán và trao đổi cho người dân địa phương, nhiều tỉnh thành trong cả nước, mà còn được xuất khẩu khẩu sang các nước láng giềng như: Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào... Để có nguồn hàng cung ứng ra thị trường, Y Thu không chỉ tổ chức, chỉ đạo người dân bắt voi mà còn tự tay săn bắt và thuần dưỡng trên 300 con voi rừng. Tính cho đến tận ngày nay vẫn không có một dũng sĩ nào ở Bản Đôn có thể  vượt qua được ông về số lượng voi săn được. 

(Hình minh họa)
 (Hình minh họa

Cũng nhờ nghề săn, thuần dưỡng và bán voi đã giúp Y Thu trở nên giàu có bậc nhất. Số lượng tiền bạc, châu báu để vào chum, ché không biết bao nhiêu mà đếm, nhiều đến nỗi Y Thu phải huy động một đội quân xây dựng hẳn một cái kho mang chính tên của ông. Cái kho đó dùng để cất chứa các ché bạc, vàng, ngà voi, xương, nanh thú quý hiếm, cồng, chiêng và nhiều sản vật quý của núi rừng Tây Nguyên. 

Khi đã giàu có, Y Thu tiếp tục dùng tiền mua đất của các tù trưởng khác trong vùng, mở rộng cát cứ. Điều đặc biệt là dù đã giàu có, nhưng Y Thu vẫn thực hiện tư tưởng chính sách thu phục lòng người, ông không hề làm giàu bằng cách bóc lột người khác, mọi người ở Buôn Đôn đều công bằng sống với nhau. 

Ông không chủ trương gây chiến tranh với các tù trưởng lân cận để giành đất, mà chỉ bằng con đường thương lượng hay đổi bán mà thôi. Với những trai bản khỏe mạnh ông cho luyện tập sức khỏe, rồi làm nhiệm vụ đi bắt voi. Người nào yếu hơn ở nhà cùng phụ nữ trồng trọt, chăn nuôi, trông coi thú. Mỗi lần nghe thấy người nào trong vùng bị các tù trưởng bóc lột, bắt phải chết ông bỏ tiền mua về làm công dân của bản. 

Sự phát triển ngày càng phồn thịnh, khiến Y Thu đã xây dựng buôn Đôn thành một vùng gần như khu tự trị, dưới quyền cai quản của ông. Tuy không tổ chức thành chính quyền theo mô hình nhà nước, không có quân đội, không vũ khí, nhưng vai trò của ông Y Thu trong quần chúng là rất lớn. 

Những cuộc chiến tranh giữa các dòng tộc để giành đất, ông thường là người đứng ra giải hòa, vì thế các tù trưởng trong vùng luôn kính nể ông, làm cái gì cũng phải thông qua ông. Vào cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp đặt chân lên mảnh đất Tây Nguyên, hòng thu phục miền cao nguyên rộng lớn này. 

Khi Pháp xâm lược Việt Nam, chúng đã nhằm thâu tóm Buôn Đôn và biến nơi đây thành thủ phủ của Tây Nguyên. Nhưng khi đó, Tây Nguyên bao trùm bởi những cánh rừng bạt ngàn, giữa vùng cao nguyên chỉ có cây rừng và thú dữ.

Sự có mặt của Pháp đã vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của Y Thu và buôn làng, khiến Pháp không thể thực hiện ý đồ đánh chiếm, vì thế chúng ta dùng cách thương thuyết. Y Thu dứt khoát không cho Pháp thực hiện ý đồ đặt chân lên mảnh đất của mình nên đã đuổi chúng về buôn Ma Thuột (nay là thành phố Buôn Mê Thuột). 

Cho Pháp vay hàng trăm ché bạc? 

Danh tiếng và sự giàu có của Y Thu nổi tiếng tới mức người Pháp cũng tìm gặp để vay tiền. Trong giai đoạn Thế chiến, vì bí tài chính, viên toàn quyền Pháp ở Đông Dương phải đến nhà Y Thu ngỏ ý vay tiền bạc. H’Nguă Byă khẳng định rằng: “Khi viên quan Pháp đến thương lượng, hòng đặt đồn bốt tại buôn Đôn, Y Thu kiên quyết không cho.

Ông bảo rằng, buôn Đôn chỉ dành cho người buôn Đôn đi bắt voi thôi. Các ông dùng súng ống bắn nhau voi sợ, voi chết chúng tôi làm sao đi bắt voi được. Chúng tôi có nhà, chúng tôi biết đổi bán rồi, không cần các ông. Tuy nhiên, Pháp vẫn dùng thế lực để lập đồn, chúng trồng cây, rau để ăn. Đêm đến ông chỉ đạo dân làng âm thầm nấu nước sôi đổ vào gốc cho cây chết. Một thời gian sau Pháp tin rằng đất này có độc, có ma, có bùa... về lâu dài không thể sinh sống được, nên chúng rất hoang mang.

Khi đã dọa được Pháp, ông mới giới thiệu chúng ra vùng cách hơn ngày đi đường, đó chính là Buôn Mê Thuột, thủ Phủ của Tây Nguyên ngày nay. Khi Pháp có ý định bắt thanh niên đi lính phục dịch cho chúng, Y Thu khăng khăng: “Trai tráng trong buôn là lực lượng chính đi bắt voi, các ông bắt đi rồi ai bắt voi rừng nuôi dân làng chúng tôi. Các ông cần tiền tôi sẽ cho tiền”.

Biết là không làm được gì, nên chúng đã lợi dụng danh tiếng và sự uy tín của Y Thu, chúng khéo léo trong cách muốn làm việc gì ở bản Đôn đều phải xin ý kiến của ông. Chúng còn mời ông ra Buôn Mê Thuột để làm Chánh án Toà án phong tục, nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp và kiện tụng của những người dân tộc Tây Nguyên.

Thế chiến giữa các các cường quốc diễn ra vô cùng ác liệt, vì cần tiền mua vũ khí nên viên toàn quyền Pháp ở Đông Dương đã đến nhà Y Thu để ngỏ lời vay tiền. Ông không có cảm tình với thực dân Pháp nên đã từ chối không muốn cho vay. Nhưng chúng đã dùng thủ đoạn ép Y Thu đến con đường cùng, nếu không cho chúng vay tiền, chúng sẽ bắt thanh niên trong buôn làm lính phục dịch, bắt phụ nữ về làm vợ.

 Y Thu không muốn dân làng mình phải phục dịch cho chúng nên ông đã đồng ý cho chúng vay với điều kiện phải viết giấy vay nợ và có chứ ký của đôi bên. Nghe nói khoản tiền khổng lồ đó không thể xác định được là bao nhiêu, chỉ biết rằng là nó được đựng vào hàng trăm ché bạc, sau đó cho voi chở ra Buôn Mê Thuột. Y Thu cho người mang một phần trong kho bạc khổng lồ của dòng họ ra, trong đó có ngà voi, vàng, bạc và những trang sức vô cùng giá trị.

Những giấy tờ và biên bản vay tiền của Pháp được Y Thu cất cẩn thận trong một ống tre lồ ô rồi cất vào một vị trí trên nóc nhà, nơi mà chỉ có ông mới biết. Nhưng không ngờ đến năm 1928, mùa khô ở Tây Nguyên vô cùng khắc nghiệt, cây cỏ héo hon, cảnh vật tàn lụi, một ngọn lửa vô tình đã thiêu trụi cả làng. Những giấy tờ thỏa thuận cũng biến thành tro tàn. Y Thu không còn cơ sở để đòi món nợ lớn đó nữa, về phía Pháp cũng không thấy ý kiến hoặc bất kỳ động thái gì cả.

Cũng vì thế, mà ông chấp nhận một phần trong kho báu khổng lồ của mình “mất hút” cùng trận hỏa hoạn ngày nào. Sau này, ông nhận ra bản chất thật và bộ mặt xấu xa của thực dân Pháp nên đã không bắt tay thỏa hiệp với chúng. Vì thế, ông đã lãnh đạo người dân Buôn Đôn đứng dậy đấu tranh, hỗ trợ cho một số cuộc khởi nghĩa của các vị anh hùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, sau đó các cuộc đấu tranh này đều thất bại vì vũ khí, hỏa lực của kẻ thù quá mạnh.

(Còn nữa)

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.