Độc đáo nghi lễ Cấp sắc để trưởng thành của người Dao (Kỳ cuối)

Một buổi lễ cấp sắc của người Dao.
Một buổi lễ cấp sắc của người Dao.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Lễ cấp sắc - Một nghi lễ dân gian đã được lưu truyền từ ngàn đời nay trong cộng đồng người Dao đỏ, thể hiện khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Theo tín ngưỡng, nam giới người Dao đỏ nếu chưa được cấp sắc thì dù sống tới già vẫn bị coi là chưa trưởng thành, sẽ không được tham gia vào các công việc hệ trọng.

* Độc đáo Lễ Cấp sắc - nghi lễ định danh một thanh niên người Dao trưởng thành

Các cấp bậc nghi thức

Với hàng chục nghi lễ diễn ra trong quá trình cấp sắc, lễ nhảy đồng cũng là một trong những nghi lễ độc đáo đó. Khi nhảy đồng, thầy cả ngồi ở ghế dùng hai mảnh âm dương gõ vào nhau theo điệu nhạc, thầy ba đứng lên múa theo nhạc trống, chiêng đến lúc nhập đồng. Khi đó, gia đình phải cử một người đứng chặn ở cửa ra vào để thầy ba không nhảy ra ngoài, sau hay bị ốm đau. 

Trong nghi lễ cúng cầu may mắn, sức khoẻ cho người được cấp sắc, gia đình dọn dẹp ban thờ thần linh, chuẩn bị lễ gồm 2 con lợn khoảng hơn 100kg đã mổ, để sống, đặt nằm úp bụng xuống. Ban thờ thần linh đặt một con lợn, bát gạo, 7 cái chén (7 ông đại thần), cây sáo, giấy lệ phí cho đại thần, bát hương, bánh nếp...

Một con đặt ở dưới ban thờ tổ tiên. 3 người hát nam, 3 người hát nữ đứng đằng sau thầy cả cùng làm lễ. Thầy cả đứng đọc bài cúng, hết một đoạn thầy hất tay về phía trước và vãi gạo vào con lợn để cầu xin vận may, tài lộc cho người được cấp sắc. Thầy hai đứng trước ban thờ cúng tổ tiên cầu xin vận may, tài lộc cho người được cấp sắc, rồi làm lễ chia tiền vàng, múc rượu mời tổ tiên.

Ba người hát nữ đứng hát ở chỗ cây tre đan vào nhau được chuẩn bị sẵn, 3 người hát nam đứng ở góc nhà hát đối đáp. Nhóm hát các trường đoạn từ khi con người được sinh ra, dạy dỗ đến khi trưởng thành như thế nào, hát mừng cho tên mới của người được cấp sắc. Trong khi đó, gia chủ chuẩn bị một mâm cơm đặt ở giữa nhà. Thầy cả làm lễ mượn thần linh những bài thơ ca, truyện cổ, xin phép tổ tiên, thần linh được đọc.

Thầy cúng đang hành lễ cấp sắc.
 Thầy cúng đang hành lễ cấp sắc. 

Những người đọc thơ (thường là những người già biết chữ Nôm Dao, biết lời cúng) và thầy cả, thầy hai và thầy ba ngồi vào mâm, rót rượu chúc nhau. Lấy lá dong phủ lên mâm cơm đó. Những người đọc thơ ca mang những quyển sách ghi chép thơ ca, truyện cổ đặt lên bàn, miệng đọc, tay cầm chuông lắc đều theo nhịp trong khoảng 2 - 3 giờ. Sau đó, họ mời nhau uống rượu, ăn cơm.

Tiếp đến, thầy sẽ làm lễ xoá những kiêng kị cho người được cấp sắc, để thực hiện nghi lễ, gia chủ chuẩn bị một mâm cơm, bố của người được cấp sắc đặt 3 cái bánh nếp lên ban thờ của tổ tiên. Thầy cả đọc bài cúng xin tổ tiên và thần linh xoá đi những cái kiêng kị cho người được cấp sắc. Thầy cả đứng trước mâm lễ ở ban thờ thần linh để làm lễ hồi thơ ca.

Cúng xong thầy cả làm lễ chia tiền vàng cho tổ tiên và thần linh, rồi mang tiền vàng đi hóa. Ông nội của người được cấp sắc cúng mời tổ tiên về dùng bữa cùng gia đình. Sau khi làm lễ này xong, người được cấp sắc quay trở lại cuộc sống bình thường, không phải kiêng kỵ nữa.

Trong Lễ tống đại thần ra về, thầy cả đứng trước ban thờ tổ tiên, tay cầm mảnh âm dương đọc bài cúng xin tiễn thần linh (đại thần). Cúng xong thầy cả cầm bát hương và bát rượu mang ra ngoài cửa đổ đi. Lễ cấp sắc kết thúc, 2 con lợn được xẻ thịt chia phần cho những người giúp việc, riêng thầy cả và thầy hai mỗi người sẽ được một cái đầu và một đùi lợn để mang về nhà làm cơm mời mọi người trong bản dùng bữa mừng bản thân đi làm lễ thành công.

Nghi lễ cấp sắc cho người Dao Quần chẹt

Với người Dao Quần chẹt, trước đây, lễ cấp sắc thường chỉ làm cho một người nhưng nay để tiết kiệm chi phí, người dân có thể tổ chức cho 3 người một lần (phải là số lẻ), có thể ở cùng bản hoặc khác bản trong một xã. Gia đình của người làm lễ cấp sắc dựng và trang trí nhà ma ở ngoài sân của nhà người làm lễ.

Tại bản Khe Lành, xã Mường Thải, huyện Phù Yên, do làm lễ cấp sắc cho 3 người nên nhà ma được dựng tại một khu đất trống ở gần nhà những người được cấp sắc. Nhà ma làm bằng gỗ hoặc tre, quây bạt xung quanh (trước đây nhà ma phải quây toàn bộ bằng cây cỏ gianh), lợp mái bằng gianh, trên cửa buộc nắm cây gianh, lòng nhà chia thành 3 gian để làm 3 bàn thờ của thầy cả.

Sau khi người con trai được làm lễ cấp sắc, nhà ma hóa thành con rồng bay lên trời (cây cỏ gianh tượng trưng cho vẩy rồng) để bảo vệ, không cho hồn xấu ảnh hưởng đến người được cấp sắc. Thầy cúng lập bàn thờ cho người được cấp sắc. Sau khi lập bàn thờ, trong những ngày tiếp theo, mỗi ngày người được cấp sắc phải làm lễ cúng trước bàn thờ với sự trợ giúp của thầy cúng và người giúp việc vào sáng, trưa, tối đến khi kết thúc lễ cấp sắc.

Khi các thầy nhận lời làm lễ cho người được cấp sắc, tại nhà thầy cả, thầy làm lễ cúng và ra ngoài lấy từng cây cỏ gianh phi về hướng nhà ma để dẹp ma quỷ, dọn đường cho thầy đến nhà ma. Tiếp theo, thầy cả làm lễ giấu thân để ma không nhìn thấy thầy. Lễ xong, thầy dùng tờ giấy gói ít gạo và nhét vào vách nhà để bảo vệ nhà thầy không bị tà ma, khi đi làm lễ cấp sắc xong mới mở ra.

Người được cấp sắc được đưa đến nhà ma, các thầy thắp nến soi chọn những sợi tóc ở cao nhất trên đỉnh đầu của người làm lễ rồi buộc lại thành 3 túm, mỗi túm có 7 sợi. Đồ đệ của thầy cả đến bàn thờ thắp nến đặt trước bức tranh Tam Thanh để thắp sáng và làm bay đi các tạp uế cùng với những tội lỗi của người làm lễ. Sau đó, thầy thứ 4, thứ 5 che kín người được làm lễ cấp sắc bằng áo cà sa vàng, cầm nến soi cho các thầy cắt tóc. Thầy thứ 3 cắt một trong những lọn tóc đã chọn của người cấp sắc.

Trong khi thầy cắt tóc thì các đồ đệ của thầy cả và thầy 2 đánh chiêng, trống, múa theo kiểu từng nhịp bước chân đi. Tương tự thầy 3, thầy cả và thầy 2 cũng làm như thế để cắt tóc cho đồ đệ mới (thầy cả cắt sau cùng). Ba lọn tóc đã cắt được để vào một bát nước lã trên bàn thờ (đặt trước tranh Tam Thanh), thầy 3 cởi áo cà sa trùm vào cho người được cấp sắc và đỡ người đó đứng dần lên. Lúc này, bố của người được cấp sắc sẽ đứng ngang hàng với con và thầy thứ 3 và 3 người nhảy.

Khi nhảy xong, thầy thứ 2, 3 sẽ lấy dấu đóng vào trán, hai vai, bàn chân, bàn tay, đầu gối, ngực và lưng của người được làm lễ. Lễ cấp sắc đã xong. Giấy trang trí trong nhà ma được đem đi đốt. Gia đình người làm lễ mời cả bản ăn cơm. Sau 9 ngày làm lễ cấp sắc, gia đình làm lễ cấp sắc mới được dỡ nhà ma.

Ghi nhận giá trị tiêu biểu của di sản, Lễ cấp sắc của người Dao ở tỉnh Sơn La được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Quyết định số 4036/QĐ-BVHTTDL vào ngày 21/11/2016. 

Lễ cấp sắc có nhiều cấp bậc khác nhau, từ thấp đến cao. Hiện các ngành Dao chỉ phổ biến cấp sắc 3 đèn. Cấp sắc 12 đèn (thập nhị tinh) chỉ duy trì cho các ông trưởng họ của các ngành Dao với nghi lễ phức tạp và mất nhiều thời gian, công sức chuẩn bị.

Theo khảo sát điền dã, người Dao Đỏ gọi lễ “quá tăng” để chỉ nghi lễ cấp sắc 3 đèn (bậc thấp nhất) và 36 binh mã; lễ ngũ tinh được cấp 5 đèn và 36 binh mã; lễ thất tinh được cấp 7 đèn và 72 binh mã; lễ cửu tinh được cấp 9 đèn và 72 binh mã; lễ thập nhị tinh (bậc cao nhất) được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Tuy nhiên, cấp sắc 12 đèn của dân tộc Dao đến nay rất ít thực hiện, do đó, số lượng thầy cúng cao tay (người đã trải qua lễ cấp sắc 7 đèn, 12 đèn) không nhiều.

Lễ cấp sắc là một trong những nghi lễ độc đáo và được lưu truyền từ nhiều đời nay trong cộng đồng dân tộc Dao. Trong lễ cấp sắc, người được cấp sắc và những người tham dự có thể hiểu hơn về lịch sử, cội nguồn của mình từ những bài cúng, tích truyện mà thầy cúng đọc, từ đó, nâng cao ý thức bảo tồn những phong tục, tập quán tốt đẹp của người Dao. Lễ cấp sắc phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người Dao, thể hiện qua các điệu múa, hát đối đáp - páo dung, tranh vẽ, hình cắt giấy…

Lễ cấp sắc có vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần, tín ngưỡng của đồng bào Dao, giúp họ có thêm sức mạnh tinh thần vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hướng tới điều tốt đẹp trong tương lai. Hướng người đàn ông Dao cũng như các thành viên trong cộng đồng biết tôn sư trọng đạo, kính trọng cha mẹ, luôn làm điều thiện.

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.