Tín ngưỡng thờ cúng gia tiên giúp người Việt tri ân nguồn cội

(ảnh minh họa bàn thờ gia tiên).
(ảnh minh họa bàn thờ gia tiên).
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng gia tiên nói riêng đã giúp cho người Việt và người Mường sống có đạo đức hơn, biết nhớ về tổ tiên, biết ăn quả nhớ người trồng cây, nhờ vậy mà đạo đức được vun trồng. Nhờ có tín ngưỡng ấy mà dân ta yêu cuộc sống hơn, bản chất của tín ngưỡng là cầu mong được tổ tiên phù hộ che chở cho người đang sống được khỏe mạnh, sống lâu, an khang thịnh vượng.

Phong tục cúng giỗ tưởng nhớ tổ tiên

Dân ta xa xưa chưa có chữ viết, chưa có gia phả nên không thể nhớ nổi tên tuổi các đời cụ kỵ về trước. Do tuổi thọ những nhà Việt phúc đức lắm mới có “tứ đại đồng cử”, bốn đời sống với nhau. Khi cụ bốn đời còn sống thì con cháu theo sai bảo của cụ mà làm lễ cúng giỗ các cụ bề trên nhưng khi cụ bốn đời ấy mất đi thì con cháu chỉ còn lập bát hương bài vị thờ và cúng giỗ cụ, còn các cụ từ đời thứ 5 thì con cháu do không được biết mặt, không có ràng buộc kinh tế đời sống, không kỷ niệm gì về nhau nên bài vị đem chôn, “ngũ đại mai thần chủ”, hết cúng giỗ. Các cụ được con cháu khấn chung, mời về hưởng chung trong mọi đám giỗ chạp, cầu cúng tết nhất của các gia đình con cháu. 

Người Mường sau bốn đời con cháu không còn quan hệ họ hàng huyết thống. Con cháu chung ông bà bốn đời cùng góp lễ cúng giỗ. Lúc sống ông bà sống với người con nào thì người con ấy đăng cai cúng giỗ bố mẹ, ông bà ở nhà mình. Những người khác góp lễ rồi cùng cúng và ăn uống ở nhà đó. Người Kinh và người Mường đều như nhau ở tục này. Các cụ từ đời thứ 5 xếp lên hàng tổ tiên được con cháu đời về sau gọi là “cao tằng, tổ tỉ”, có bất cứ lễ lạt gì của gia đình các cụ đều được mời về dự. 

Người Mường không làm nhà từ đường thờ tổ họ, không giỗ họ. Nhưng các nhà con trưởng gọi là nhà cái hàng đích tôn của các gia đình, vì thế đều phải lập bàn thờ dòng dõi để thờ tổ tiên, thờ tượng trưng chỉ bằng mảnh ván nhỏ hoặc phên nứa bên trên để bát nước, bó vàng hương bằng gỗ chẩu chẻ nhỏ như ngón tay dài 15 - 20cm. Có nơi thay gỗ chẩu bằng cái dòng dõi, là cái xúc xích nan nứa, cuộn tròn lồng vào nhau như cái xích, mang ý nghĩa là tổ tiên đời đời dòng dõi. 

Hàng năm vào ngày 25 Tết âm lịch người ta thay bát nước mới, thắp ba nén nhang khấn mời tổ tiên về ăn cỗ. Theo người dân kể lại, một nhà cái ở xã Thượng Long, huyện Yên Lập và một nhà cái ở xã Tân Lập huyện Thanh Sơn (Phú Thọ) cách đây 15 năm còn thấy họ cúng ở bàn thờ dòng dõi, khấn gọi vua Hùng đầu tiên, sau đó gọi đến tổ tiên cao tằng tổ khảo.

Tín ngưỡng thờ cúng, giỗ Tổ Hùng Vương của người dân Việt Nam.
 Tín ngưỡng thờ cúng, giỗ Tổ Hùng Vương của người dân Việt Nam. 

Người Kinh khác với người Mường ở chỗ đều giữ mả tổ, lập nhà từ đường thờ tổ họ. Người Kinh có tổ chức họ. Khi xưa lịch sử luôn biến động, con người nhiều khi mai danh ẩn tích lên sống ở Phú Thọ. Phần nhiều con cháu người Kinh không nhớ quê gốc, họ hàng gốc gác cũng phải giấu kín. Đến đây họ mới sinh con đẻ cái. Con cháu về sau coi các cụ đó là tổ họ. Giỗ họ hằng năm đều phải gọi tên húy tên kỵ của các cụ, sau một vài chục đời tên các cụ vẫn lưu truyền trong con cháu. Phần nhiều họ chỉ nhớ tên tổ họ còn các cụ khác từ đời thứ 5 đổ trở về trước thì ít ai nhớ đến. 

Cũng vì có tổ chức họ nên người Việt hằng năm mới có lễ chạp họ (lễ làm vào tháng chạp). Lễ này người Việt chỉ làm vào tuần cuối tháng chạp, từ 25 Tết đổ đi. Con cháu tề tựu ở nhà từ đường, thường là ở nhà trưởng họ để làm lễ cúng tổ tiên. Thông thường người Việt làm lễ chạp họ nhân dịp đi quét mả, dọn vệ sinh, đắp mộ cao hơn hoặc quét vôi mồ mả tổ tiên đồng thời khấn mời các cụ về ăn tết. 

Khác người Kinh, người Mường không có tổ chức họ, không có nhà từ đường thờ tổ họ nên không có lễ chạp họ, không có tục đi đắp mả, rẫy cỏ cho mồ mả vì không có mả tổ. Người Mường giống như nhiều tộc người ở rừng khác do xa xưa du canh du cư nên người ta chỉ coi trọng phần hồn hơn phần xác. Mồ mả vì thế không được coi trọng như người Việt. Người Việt coi trọng mồ mả nên mới có câu “Sống vì mồ vì mả, không ai sống vì cả bát cơm”.

Nghi thức tiễn biệt người quá cố

Tín ngưỡng gia tiên được tính từ lễ tang ma. Người Việt và người Mường chung nguồn gốc nên có cùng quan niệm chết chưa phải là hết, các hồn ma vẫn lởn vởn quanh con cháu để quở mắng hoặc phù hộ cho con cháu đang sống ở trên đời. Vì thế nhiều tục lệ tang ma khá giống nhau giữa hai nhóm tộc người này.

Khi có người chết họ đều cúng ngay bằng bát cơm quả trứng, cắm đũa bông vào bát cơm. Quả trứng do gà đẻ trên cạn là dương, bát cơm bằng gạo cấy trồng trong nước là âm, thân đũa tượng hình dương tính là dương, phần bông trên đầu đũa biểu hiện vật âm. Khi cái chết cũng như mọi cái có đủ âm đủ dương thì sẽ tốt, sẽ phù hộ cho con cháu được nhiều hơn.

Do vậy phần nhiều lễ nghi tang ma của hai dân tộc khá giống nhau do quan niệm sống chết giống nhau, nhưng khác nhau là ở các nghi thức cách làm riêng. Thi hài người Việt khi chết có lâu lắm cũng chỉ để trong nhà dăm bảy ngày phải mai táng. Việc làm ma to hay nhỏ là do hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình quyết định. Nhưng việc cúng to, nhỏ thì đều tuần nào tiết ấy: cúng tam nhật, cúng sóc, vọng tuần đầu, cúng 49 hoặc 100 ngày v.v... Nhưng người Mường có thể để thi hài người chết ở trong nhà hai ba tháng chờ con cháu có đủ lợn, gạo, rượu mới tổ chức mai táng và làm ma cúng tế người chết.

Tục cắt tóc trả ơn có từ xa xưa nay vẫn được bảo lưu trong vùng Mường. Khi cha mẹ, ông bà quá cố con cháu quỳ quanh cái nong, một chân ở trong nong, một chân để ngoài đất. Trong nong có bát nước lã và cái kéo. Có một bà hàng xóm dùng kéo cắt tượng trưng một lọn tóc lần lượt từ người vai trên xuống người vai dưới. Người Kinh cũng nói câu “cắt tóc trả ơn” nhưng tục này đã bỏ. Người Kinh cũng có tục đem của chôn theo người chết gọi là đồ tùy táng như quần áo, con dao, cái bát, cái kính…

Tục đốt vàng mã để thay cho của nả cần có cho cuộc sống người chết ở cõi âm. Về việc này người Mường làm khác, họ chia của cho người chết, đem để ở ngoài mả: gạo nước, nồi niêu, xoong chảo… Họ còn chia cho người chết gà lợn sống đem thả ngoài mả cho chúng thành thú rừng. Người Mường làm nhà mồ khá công phu. Mồ mả của người Kinh lúc hung táng đơn giản lấy “đào sâu chôn chặt” là chính. Chôn sau ba bốn năm, người Kinh lại cải táng, thay mả. Người Mường chôn xong là xong, không cải táng như người Kinh.

Do hoàn cảnh sống khác nhau nên phong tục khác nhau. Người Kinh ở vùng ngoài làm vàng hương để cúng tế. Vàng hương của người Mường khác vàng, hương của người Kinh. Hương không xe bằng thuốc thành các que, các vòng mà người ta dùng than một loại gỗ có mùi thơm khi cháy. Khi cúng đốt dăm bảy cục than trong bát để có khói thơm tỏa đi bốn phương báo các thần, các ma biết mà về dự tiệc. Vàng làm bằng gỗ chảu chẻ nhỏ như ngón tay bó thành từng bó đặt trên bàn thờ, bàn cúng cạnh cơi trầu, bát nước lã và đồ lễ khác…

Tín ngưỡng nói chung, tín ngưỡng gia tiên nói riêng đã giúp cho người Việt và người Mường sống có đạo đức hơn, biết nhớ về tổ tiên, biết ăn quả nhớ người trồng cây, nhờ vậy mà đạo đức được vun trồng. Nhưng ý nghĩa tích cực hơn là nhờ có tín ngưỡng ấy mà dân ta yêu cuộc sống hơn vì bản chất của tín ngưỡng là cầu mong sự phù hộ che chở của các hồn, các ma cho người đang sống được khỏe mạnh, sống lâu, an khang thịnh vượng.

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.