Lắt lay nghề gốm truyền thống của đồng bào Chu Ru

Sản phẩm gốm Chu Ru.
Sản phẩm gốm Chu Ru.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Trước sự thay đổi thị hiếu của người tiêu dùng sang các sản phẩm tiện lợi như inox, nhựa... nghề gốm Chu Ru ở làng K’răng Gọ (xã Pró, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng) đang dần mai một. Đối với những nghệ nhân còn nặng lòng với nghề gốm Chu Ru, chỉ cần ánh lửa từ củi rừng, ngô bản còn cháy thì gốm Chu Ru sẽ còn có ngày trở lại, hiện hữu trong đời sống của họ như đã từng. 

Nét tâm linh của người Chu Ru

Đồng bào Chu Ru được biết đến là dân tộc có đôi bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ. Làng K’răng Gọ là nơi duy nhất ở Lâm Đồng còn người theo đuổi nghề làm gốm Chu Ru. Từ đất, các nghệ nhân Chu Ru đã làm ra những vật dụng phục vụ cho đời sống hàng ngày, thậm chí còn thể hiện tâm tư, tín ngưỡng tôn giáo cả mỗi người Chu Ru. Màu lửa gốm K'răng Go trở thành cảm xúc riêng, chất chứa bao câu chuyện về đời sống sản xuất nông nghiệp, về phát triển kinh tế, về sắc màu văn hóa của đồng bào Chu Ru.

Trong mắt người nghệ nhân già như bà Ma Li, gốm ở K’răng Gọ hiện rõ nét tâm linh của người Chu Ru. Điều này được thể hiện rõ ở việc trước khi đi lấy đất nguyên liệu, bao giờ nghệ nhân Chu Ru cũng phải chuẩn bị lễ vật, gồm: một ché rượu cần, một con gà hoặc lợn, một chiếc khăn thổ cẩm để xin phép chủ làng, thần đất. Nếu một gia đình không đủ tiền để sắm những lễ vật ấy thì nhiều hộ gia đình góp chung vào với nhau. Miễn có lễ vật là được.

Ngay như việc lấy đất cũng không thể tùy tiện, chỉ khi người nghệ nhân cảm thấy trong người sạch sẽ, tâm hồn thảnh thơi thì mới đi lấy đất. Người Chu Ru quan niệm rằng, nếu không làm các nghi lễ nói trên và lấy đất khi người vướng vào các điều kỵ thì các sản phẩm gốm làm ra sẽ xấu, hoặc bị nứt vỡ nhiều do thần linh quở trách.

Nghề gốm của người Chu Ru ở làng K’răng Gọ không biết có tự bao giờ, ai là người đầu tiên khai sinh nghề gốm ở làng này. Những già làng khi được hỏi cũng chỉ kể rằng, từ khi sinh ra họ thấy đã mẹ, bà ngày ngày ngồi trong sân, trong vườn chăm chút làm từng sản phẩm gốm.

Nghệ nhân Ma Li đang tạo hình nồi đất.
 Nghệ nhân Ma Li đang tạo hình nồi đất.

Những chiếc nồi, bình đựng nước, lọ hoa, bát ăn... và nhiều vật dụng khác được khéo léo tạo ra từ tay bà, tay mẹ. Rồi cứ thế, nghề gốm Chu Ru được truyền từ đời này sang đời khác một cách tự nhiên ở K'răng Gọ. Không nhiều người bận tâm về nguồn gốc của nghề, họ chỉ một lòng làm sao có thể tạo ra những sản phẩm tốt nhất, lưu giữ được hồn của gốm Chu Ru. 

Tuy nhiên, cũng có nhiều già làng khác kể rằng, từ rất lâu rồi, người Chu Ru vốn có nguồn gốc của người Chăm, từng sinh sống ở vùng duyên hải Trung Bộ nước ta. Đến khi cuộc chiến của người Chăm với người Khơ-mer và người Việt xảy ra, người Chăm đã bóc lột những người nông dân lao động đồng tộc của mình một cách tàn bạo để phục vụ cho cuộc chiến.

Khi đó, vua chúa Chăm bắt lích đi phu, đi lính triền miên khiến đời sống của đồng bào Chăm khổ cực, người người oán than. Vì muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột nặng nề đó, một số người buộc lòng phải bỏ quê hương bản xứ, đi tìm vùng đất mới. Và chính những người di dân đầu tiên này đã sinh ra bộ tộc Chu Ru ngày nay. 

Gốm Chu Ru thường được tạo ra từ đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ
Gốm Chu Ru thường được tạo ra từ đôi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ

“Chu Ru” có nghĩa là chiếm đất. Ban đầu, những người này được người Mạ, người K'Ho (những cư dân bản địa gốc Nam Tây Nguyên) gọi là Cru (có nghĩa là tìm đất) về sau đọc chệch sang thành Chu Ru, dùng để chỉ một bộ tộc người Chăm ly hương từ vùng duyên hải Trung Bộ lên miền Thượng. Những người ly hương này đã mang theo nghề làm ruộng và nghề làm đồ gốm của người Chăm.

Còn tên làng K’Răng Gọ được hiểu rằng, Krăng” là tên ông chủ khai sinh vùng đất, còn “Gọ” trong tiếng bản địa là chỉ nghề làm nồi đất. Khi những buôn làng khác ở Tây Nguyên từng bao đời du canh du cư thì người Churu làng K’Răng Gọ chỉ tụ cư bên suối Đạyòng dưới chân ngọn núi Pnum T`rom Ủ. 

Làng gốm trong ký ức

Mọ Lem (mọi người hay gọi bà Ma Li) năm nay đã bước sang tuổi 65 nhưng còn rất nhanh nhẹn, rắn rỏi, nhớ lại xưa kia bà kể, ngày trước đồ gốm của làng K’răng Gọ nổi tiếng khắp vùng, đó là thời kỳ thịnh vượng nhất của gốm Chu Ru.

Vồn vã mời khách vào nhà, giới thiệu vài món nồi, niêu, ấm, cốc đang được bày trang trọng trên tủ, cho cho biết thêm: Từ khi mới lẫm chẫm biết đi, mình đã học nghề làm gốm từ bà nội. Bà sai gì thì mình làm nấy, từ tiếp nước, nhặt sạn… đến năm 15 tuổi thì tay nghề mình đã thành thạo lắm rồi, đổi được cái niêu đầu tiên cũng vào tuổi đó. 

“Trước đây, vào mùa khô, từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, ngày nào ở K’răng Gọ cũng nhộn nhịp, người người nặn gốm, nhà nhà phơi gốm. Đàn ông thì tất bật gùi đất, kiếm củi, thắp lửa. Đàn bà thì gò lưng sàng đất, nhào đất, nặn gốm để đổi chiêng, ché, thổ cẩm với người Mạ, người Cơ Ho, còn đổi gạo, đổi muối với người Kinh… Ngày xưa, làng gốm vui lắm!”, những ký ức về một thời đã qua đó khiến khuôn mặt của già Ma Li bừng sáng. 

Phụ nữ vào núi Pnum T'rom Ủ chọn đất tốt. Ðàn ông gùi đất về buôn. Khắp cả buôn ồn ào tiếng sàng sảy đãi đất, tiếng phơi đất, nhào đất và nặn gốm. Kỹ thuật chế tác đồ gốm của đồng bào Chu Ru khá đơn giản, không dùng bàn xoay, các sản phẩm đều được vuốt, nặn bằng đôi bàn tay. Ngay cả dụng cụ chế tác cũng hết sức giản đơn: Một chiếc vòng bằng tre hoặc thiếc, gọi là Knu; một miếng Tanạp (gỗ nhỏ); một quả Playcanh (trám rừng); một miếng Suté (vải). Tuy nhiên, không phải vì thế các sản phẩm gốm Chu Ru kém phần tinh xảo.  

Các sản phẩm của gốm Chu Ru đa phần là đồ dùng sinh hoạt hàng ngày.
Các sản phẩm của gốm Chu Ru đa phần là đồ dùng sinh hoạt hàng ngày.  

Đất sét sau khi được lấy về sẽ được phơi khô, dùng chày giã nhỏ, sau đó sàng kỹ lại bằng rổ tre để lấy được phần bột đất mịn màng. Bột đất được mang đi nhào trộn với nước thật nhuyễn, đất đạt chuẩn để nặn gốm là khi đã dẻo mịn, ủ thêm vài ngày cho đất chín rồi mới vê thành từng khối dài để nặn thành hình. Những khối đất được các nghệ nhân (thường là nữ) đặt lên bàn gỗ cố định. Bàn gỗ này có hình con con chạch lượn tròn và tạo dáng hoàn toàn bằng tay.

Nghệ nhân gốm dùng tay nặn đất theo khuôn sản phẩm cần làm, vừa đi giật lùi vòng quanh bàn kê gốm, vừa đỡ và vuốt ngược từ dưới lên để tạo dáng... Các thao tác được lặp đi lặp lại cho đến khi hình dáng của sản phẩm đạt theo ý muốn. Tiếp đến, thao tác vuốt nước nhằm tạo độ láng cho mặt ngoài sản phẩm. Những công đoạn chủ đạo như nhào, vuốt… đòi hỏi sự khéo léo nên đều do phụ nữ đảm nhiệm. 

Để chỉnh sửa và trang trí nghệ nhân dùng bàn đập, nạo tròn, hạt tràm để làm cho sản phẩm có xương chắc, dày đều và nhẵn. Đồng thời làm liền mạch nối giữa hai nửa, điều chỉnh lại những chỗ chưa vừa ý trong quá trình tạo dáng sản phẩm. Gốm Chu Ru ít trang trí, chỉ là những vạch hoặc chấm tạo bằng que vót nhọn, viền quanh vai gốm. 

Tạo hình xong, nghệ nhân đem cốt gốm phơi cho thật khô, chỉnh sửa lại lần cuối, sắp xếp các sản phẩm giữa một khoảng đất trống ngoài trời, chất củi, rơm xung quanh rồi nổi lửa lên đốt. Thường thì hai ba nhà cùng góp lại đốt chung cho đỡ tốn củi, cũng là để giúp đỡ nhau về mặt kỹ thuật. Củi được tiếp liên tục, đốt từ chập tối đến quá nửa đêm thì mẻ gốm hoàn thành. Khi gốm chín, người thợ gốm bỏ tấm gạo vào nấu thử, công đoạn này được gọi là lơhenggọ... Đốt từ chập tối đến quá nửa đêm một chút thì mẻ gốm hoàn tất.

Bà Lương Thanh Sơn, Nhà nghiên cứu dân tộc Tây Nguyên, chia sẻ: “Nghề làm gốm của đồng bào Chu Ru giống nghề làm gốm của đồng bào dân tộc Chăm ở làng gốm Bầu Trúc, đó là không dùng bàn xoay. Người làm sẽ chạy quanh trụ được làm bằng thân cây hoặc lật ngược chiếc cối đá lên để làm gốm. Các sản phẩm gốm cũng được nung lộ thiên, rất nguyên thủy”.

Người K’răng Gọ tạo ra các sản phẩm gốm vô cùng thân thuộc với đời sống của đồng bào Tây Nguyên như những cái kòngọ để nấu bồ kết cho phụ nữ gội đầu, gọkrơ dùng để làm tô ăn cơm, gọprò như chiếc nồi nhỏ để nấu cháo bắp... Nhờ những sản phẩm gốm này mà đời sống của người dân K’răng Gọ cũng bớt khó khăn, bởi gốm làm ra tới đâu hết tới đó. 

Điểm đặc biệt của gốm Chu Ru là khi cầm lên gõ vào sản phẩm người ta sẽ nghe tiếng khác lạ so với gốm các nơi khác. Tiếng gõ của gốm Chu Ru vang vọng gần giống với đồ dùng kim loại, không đặc như là bằng đất nung. Theo nhiều nghệ nhân, điều đặc biệt đó được tạo nên bởi chất đất ở Chu Ru có những hạt lóng lánh nên tiếng vang trở thành đặc biệt. Đó là những đám ánh bạc li ti rải đều trên thân nồi đất mỏng tang.

Nghệ nhân Ma Li cho biết, xưa kia gốm được người làng K'răng Gọn dùng để đổi lấy đồ dùng… Cách thức mua bán gốm thời đó cũng rất đơn giản, chỉ mang tính ước lượng tương đối, chứ ít khi tính toán chi li. Nếu là gạo, cứ đong đầy sản phẩm gốm, rồi bên này lấy gạo, bên kia lấy gốm. Nếu là vật phẩm quý, sẽ căn cứ vào độ tinh xảo của gốm để trao đổi. Nhờ nghề gốm mộc mà cuộc sống của người dân Chu Ru nói chung và làng K'răng Rọ nói riêng không phải lo nhiều tới cái ăn, cái mặc. 

Không chỉ bó hẹp trong phạm vi tỉnh Lâm Đồng, gốm Chu Ru còn theo chân những người Ê Đê, Ba Na sang tận Đắk Lắk, Gia Lai. Cũng có những thương nhân buôn bán người Lào, người Campuchia mang vật phẩm đến K’răng Gọ, đổi lấy gốm mộc Chu Ru về dùng, bán. Đồ gốm mộc Chu Ru đã theo các lái buôn ngược xuôi vang danh khắp đại ngàn Tây Nguyên. 

“Trước đây, còn có trò cá cược vui. Người dân hai thôn trong làng đóng giả một bên mua và bên bán. Bên mua là các lái buôn thì đi đổi cho bên bán có sản phẩm gốm, bên nào ít đồ đổi hơn thì bị thua. Kết thúc trò chơi, lần nào thôn Krăng Gọ cũng thua bên mua hết. Vì là cá cược nên bên thua sẽ mất một ché rượu, một con gà. Mọi người còn trói chân nhau rồi “phạt” uống rượu”, nghệ nhân Ma Li nhớ lại...

(Kỳ tới: Làm gì để "cứu" gốm Chu Ru?) 

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.