Chuyện giữ nghề ở Hà Nội

Để phục vụ khách du lịch, các cơ sở kinh doanh tại làng lụa Vạn Phúc đã sản xuất đa dạng các sản phẩm làm quà tặng nhằm giới thiệu, quảng bá với du khách các sản phẩm làng nghề. (Ảnh: ĐH)
Để phục vụ khách du lịch, các cơ sở kinh doanh tại làng lụa Vạn Phúc đã sản xuất đa dạng các sản phẩm làm quà tặng nhằm giới thiệu, quảng bá với du khách các sản phẩm làng nghề. (Ảnh: ĐH)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Hà Nội từ lâu được biết đến là mảnh đất có nhiều nghề, phố nghề, làng nghề truyền thống nổi tiếng. Tuy nhiên, qua những biến thiên của thời gian, nhiều nghề đã và đang bị mai một hoặc đang tồn tại một cách lay lắt. Sự mai một của nghề truyền thống, không chỉ làm mất đi kế sinh nhai của người dân, mà còn mất đi một chiều cạnh văn hóa đã từng gắn bó với một vùng đất…

Đôi điều ở Ngũ Xã…

Trong một sáng thu Hà Nội, bước chân đưa người viết đến với Ngũ Xã - làng nghề đúc đồng nổi tiếng của chốn kinh thành xưa, nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội. Tại số nhà 42 Nguyễn Khắc Hiếu, dáng vẻ chăm chú của người đàn ông trước bức tượng dở dang, trong một không gian tràn ngập đồ vật, tượng được tạo tác từ đồng, rất thu hút sự chú ý.

Người đàn ông ấy là ông Đỗ Phi Hùng, sinh năm 1964. Quê gốc Nam Định, nhưng ông Hùng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội và là con rể của một gia đình trong làng đúc đồng Ngũ Xã. “Vợ tôi là con của gia đình làm nghề trong làng, tôi là con rể nhưng vì mê nghề nên đã tự học, tự mày mò, học qua sách vở, bạn nghề… để theo nghề. Công việc của tôi là kinh doanh nguyên liệu kim loại nên tôi có dịp đi rất nhiều làng nghề đúc trên cả nước để tìm tòi, học hỏi về nghề. Nghề đúc đồng truyền thống thì ai cũng rõ rồi, rất vất vả và công phu.

Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ, người làm nghề xưa bị cạnh tranh rất mạnh. Ví dụ như bức tượng tôi đang làm đây, để tạo được khuôn mặt có hồn, với đầy đủ cơ khối, trông như người thật đang hiển hiện thì người làm phải mất đến hơn tháng tỉ mỉ từng nét một. Nhưng với công nghệ, chỉ trong vài cú nhấp chuột sẽ có ngay một khuôn 3D khuôn mặt. Sản phẩm từ bàn tay nghệ nhân và máy móc thoạt nhìn có vẻ không khác gì nhau nhưng nếu quan sát kỹ sẽ là sự vô hồn, bèn bẹt của tượng…”.

Vừa trò chuyện, ông Hùng vừa tỉ mẩn sửa từng đường nét, chi tiết khóe mắt, gò má… trên phôi tượng. Được biết, đây là bức tượng của cố PGS.TS.BS Bùi Văn Lệnh - nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, chuyên gia đầu ngành của Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh và là anh em đồng hao với ông Hùng. Từng nét sửa chăm chú, kỹ lưỡng, tinh tế của ông Hùng trên phôi tượng đã lý giải vì sao những tác phẩm tượng đồng đang bày quanh ông như tượng Thần Huyền Thiên Trấn Vũ, Long thần… lại có hồn đến vậy.

Câu chuyện làm nghề, theo nghề của ông Đỗ Phi Hùng cũng là câu chuyện đau đáu lâu nay của làng đúc đồng truyền thống Ngũ Xã. Tương truyền, làng đúc đồng truyền thống Ngũ Xã được hình thành từ thế kỷ 17. Ở thời kỳ đỉnh cao, nơi đây là trường đúc lớn nhất kinh thành và lưu giữ tinh hoa của một trong bốn làng nghề truyền thống gồm “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”.

Làng nghề đúc đồng Ngũ Xã đã đóng góp được nhiều công trình, tôn vinh văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam, trong đó có thể kể đến tác phẩm tiêu biểu như Pho tượng Đức Phật A Di Đà nặng 14 tấn tại chùa Ngũ Xã được Nhà nước công nhận là Tác phẩm văn hóa nghệ thuật Việt Nam; Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được đặt tại đền Quán Thánh một trong Tứ trấn của đất Thăng Long - Hà Nội. Ngoài ra, còn rất nhiều pho tượng được đặt ở các địa danh quan trọng trải dài khắp đất nước, như quả chuông đồng 6 tấn tại Ngã ba Đồng Lộc, pho tượng đồng đặt tại chùa Ngọa Vân Yên Tử linh thiêng…

Sự khác biệt sản phẩm đồng của Ngũ Xã chính là kỹ thuật đúc liền khối. Đúc liền khối đối với các sản phẩm nhỏ đã không đơn giản, đối với các sản phẩm có kích thước cực lớn lại càng khó khăn, phức tạp hơn nhiều, đòi hỏi người nghệ nhân phải có kỹ năng cao trong tất cả các công đoạn. Được biết, kỹ thuật đúc liền khối này vẫn là bí quyết riêng của làng Ngũ Xã.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cái tên Ngũ Xã vẫn còn đó, các tác phẩm nghệ thuật của những người thợ đúc đồng vẫn đang được lưu giữ tại các đền, chùa nhưng sự phồn vinh của một làng nghề ngày nào chỉ còn vang vọng trong quá khứ và ký ức của lớp người ở tuổi xưa nay hiếm của làng. Ngôi làng xưa nổi tiếng với nghề đúc đồng nhưng giờ đây thay thế cho những xưởng đúc đồng xưa là nhà cửa san sát, hàng quán, cửa tiệm…

Mê nghề đúc đồng nên ông Đỗ Phi Hùng đã tự học, tự mày mò, học qua sách vở, bạn nghề… để theo nghề. (Ảnh: PV)

Mê nghề đúc đồng nên ông Đỗ Phi Hùng đã tự học, tự mày mò, học qua sách vở, bạn nghề… để theo nghề. (Ảnh: PV)

Nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng của làng đúc đồng Ngũ Xã là nhân vật thường được truyền thông nhắc đến khi đề cập đến làng nghề. Sinh ra và lớn lên tại làng nghề Ngũ Xã, trong một gia đình có nghề truyền thống, ngay từ khi còn nhỏ, nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng đã được cha ông bồi đắp niềm đam mê với nghề đúc đồng. Tuy nhiều gian nan, vất vả nhưng nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng không bao giờ nản lòng, bỏ cuộc. Để nghề tổ của làng Ngũ Xã không bị mai một, ông Ứng đã dạy hai người con trai đúc đồng ngay từ khi còn đang đi học.

Luật xưa quy định chỉ truyền lại những bí kíp về nghề đúc đồng cho con cháu trong làng. Nhưng ngày nay với xã hội phát triển đã không còn mấy người muốn gắn bó với nghề, để có thể tiếp thêm sức sống cũng như duy trì và phát triển làng nghề truyền thống của cha ông, nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng sẵn sàng truyền dạy cho những người có nhu cầu theo học, ông ấp ủ mở một trường đào tạo chuyên về đúc đồng. Nghệ nhân Nguyễn Thanh Tuấn (con trai ông Ứng) cũng khẳng định, gia đình anh muốn động viên, khuyến khích những người trẻ yêu nghề đúc đồng có thể đến học hỏi để trở thành những nghệ nhân tương lai.

Giữ gìn những chiều cạnh văn hóa

Hà Nội từ lâu được biết đến là mảnh đất có nhiều nghề, phố nghề, làng nghề truyền thống nổi tiếng, với tuổi đời hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm. Làng nghề Hà Nội hội tụ đủ các nhóm nghề: sơn mài, gốm sứ, vàng bạc, thêu ren, mây, tre đan, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá, trồng hoa, cây cảnh… góp phần lưu giữ, kiến tạo nên những giá trị văn hóa, nghệ thuật, nét đặc trưng riêng của mảnh đất kinh đô ngàn năm văn hiến.

Tuy nhiên, qua những biến thiên của thời gian, nhiều nghề, làng nghề đang bị mai một hoặc đang tồn tại một cách lay lắt. Sự mai một của làng nghề truyền thống, không chỉ làm mất đi một nghề gắn liền với kế sinh nhai của người dân, mà quan trọng hơn đó là mất đi nét văn hóa của cả vùng miền.

Tháng 11/2023, tại hội thảo trong khuôn khổ Festival “Bảo tồn và phát triển làng nghề” do Bộ NN&PTNT phối hợp với UBND thành phố Hà Nội tổ chức từ 9 - 12/11/2023, nhiều ý kiến thiết thực, tâm huyết đã được đưa ra để hướng tới việc giữ gìn và vươn xa của làng nghề.

Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường, Thủ đô Hà Nội là cái nôi của hơn 1.350 làng nghề và làng có nghề, hội tụ 47/52 nghề trong tổng số nghề truyền thống của cả nước. Hà Nội hiện có 303 nghệ nhân, bao gồm 13 Nghệ nhân nhân dân, 42 Nghệ nhân ưu tú... Đây là những “đầu tàu” gìn giữ bản sắc, văn hóa truyền thống của các làng nghề.

Thành phố phấn đấu đến 2025 sẽ hình thành trung tâm thiết kế sáng tạo giới thiệu sản phẩm OCOP của quốc gia tại Thủ đô gắn với công nghiệp văn hóa và phát triển văn hóa. Đồng thời phát triển 9 trung tâm thiết kế sáng tạo giới thiệu quảng bá sản phẩm OCOP tại các huyện và thị xã.

Tuy nhiên, các làng nghề ở Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức lớn như: khó thu hút được lực lượng lao động, chưa đem lại thu nhập cao, có nguy cơ mai một, chưa áp dụng được tiến bộ khoa học kỹ thuật; thiếu lao động trẻ có trình độ; không có sự liên kết giữa các làng nghề; thiếu kiến thức về thị trường tiêu thụ, thậm chí một số kỹ thuật truyền thống tinh xảo có nguy cơ bị mai một và thất truyền... Trước thực tế này, đòi hỏi những giải pháp nhằm bảo tồn, giữ gìn và phát triển làng nghề là rất cần thiết.

“Hiện nay, khi công nghệ thông tin, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ việc gắn kết "không biên giới" về mặt không gian giữa khu vực này với khu vực khác, giữa các nước này với các nước khác vô cùng thuận tiện và nhanh chóng thì các làng nghề cũng phải xem hình thức giới thiệu quảng bá và bán sản phẩm trực tuyến là không thể thiếu. Thực tế cũng đã chứng minh nhiều mặt hàng trong nước được biết đến rộng rãi, được tiêu thụ nhiều và được đến với thị trường quốc tế là thông qua internet”, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường cho hay.

Bàn thêm về câu chuyện của làng nghề và hướng đi sắp tới, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan chia sẻ, phát triển làng nghề không chỉ là câu chuyện bán sản phẩm mà làm sao để người tạo ra sản phẩm thấy vui, hạnh phúc với công việc của mình. Do đó, rất cần mở ra không gian mới cho làng nghề. Điều quan trọng hiện nay là làm thế nào để người dân trong làng, người trong nghề có thể kết nối với thế giới, vượt ra khỏi khuôn mẫu vốn có.

Nghề dệt lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông) là một trong những nghề truyền thống của Hà Nội gắn với làng nghề dệt lụa Vạn Phúc. Hiện làng nghề dệt lụa Vạn Phúc là điểm đến khám phá, trải nghiệm lý tưởng đối với du khách trong nước và bạn bè quốc tế. Làng lụa Vạn Phúc có khoảng 300 hộ dệt, kinh doanh mặt hàng lụa tơ tằm. Để phục vụ khách du lịch, các cơ sở kinh doanh tại làng lụa Vạn Phúc đã sản xuất đa dạng các sản phẩm làm quà tặng nhằm giới thiệu, quảng bá với du khách các sản phẩm làng nghề.

Làng nghề bánh tẻ Phú Nhi thuộc phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây cũng đang có sự phát triển sôi động với hàng chục cơ sở sản xuất bánh tẻ thường xuyên với số lượng lớn. Năm 2007, Phú Nhi được công nhận làng nghề sản xuất bánh tẻ truyền thống, danh hiệu làng nghề đầu tiên tại thị xã Sơn Tây. Năm 2010, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp Bằng công nhận thương hiệu Bánh tẻ Phú Nhi cho làng nghề.

Được sự hỗ trợ của Phòng Kinh tế thị xã, các hộ sản xuất bánh tẻ đã được đăng ký sử dụng tem nhãn của làng nghề Phú Nhi trên sản phẩm. Qua đó góp phần đưa sản phẩm Bánh tẻ Phú Nhi trở thành thương hiệu hàng hoá có sức cạnh tranh trên thị trường, đồng thời thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của làng nghề bánh tẻ ngày càng phát triển.

Từ câu chuyện của làng nghề đúc đồng Ngũ Xã, làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, làng nghề bánh tẻ Phú Nhi… có thể thấy sự chuyển mình để thích ứng là rất quan trọng. Bởi, giữ nghề không chỉ đơn thuần là gìn giữ giá trị văn hoá, tinh thần, góp phần phát triển ngành du lịch của địa phương, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho người dân, khi nhịp sống đô thị hiện đại đang dần lấn át những giá trị xưa…

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Tin cùng chuyên mục

Rước kiệu truyền thống - nghi lễ quan trọng mỗi dịp Giỗ Tổ Hùng Vương. (Ảnh: Vũ Tuân)

Giỗ Tổ Hùng Vương sẽ trở thành 'lễ hội kiểu mẫu'

(PLVN) - Năm 2025, tỉnh Phú Thọ đặt mục tiêu tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần Văn hóa - Du lịch Đất Tổ thành “lễ hội kiểu mẫu” tạo điều kiện cho đồng bào, du khách về dâng hương bái Tổ và trải nghiệm các hoạt động văn hóa, du lịch, thể thao đặc sắc.

Đọc thêm

Chi Lăng - nơi lưu giữ những chiến công chói lọi

Ải Chi Lăng. (Ảnh: DLLS)
(PLVN) - Chi Lăng (Lạng Sơn) là vùng đất giàu truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, gắn liền với những chiến công hiển hách của cha ông ta trong suốt lịch sử dựng nước, giữ nước. Với quy mô đồ sộ, địa thế hiểm trở, Ải Chi Lăng được coi là bức tường thành bảo vệ Thăng Long trước những cuộc thảo phạt của quân xâm lược phương Bắc. Các trận chiến ở Ải Chi Lăng thể hiện tài thao lược, trí tuệ của cha ông ta trong công cuộc bảo vệ đất nước.

Khai hội Đền Bà Triệu năm 2025

Toàn cảnh lễ khai hội Đền Bà Triệu năm 2025.
(PLVN) - Sáng 21/3, tức ngày 22/2 năm Ất Tỵ, tại Khu di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt Đền Bà Triệu (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc), UBND tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức Lễ hội Đền Bà Triệu năm 2025; kỷ niệm 1.777 năm ngày mất Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh.

Bắc Ninh khai quật khẩn cấp hai thuyền cổ mới phát hiện

Các thuyền được phát hiện vẫn giữ được hình dáng khá nguyên vẹn.
(PLVN) -  Sở Văn hóa,Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh đang phối hợp Viện Khảo cổ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện khai quật khẩn cấp hai thuyền cổ mới được người dân phát hiện tại khu phố Công Hà, phường Hà Mãn, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một phát hiện rất có giá trị về lịch sử và văn hóa đối với vùng đất cổ Luy Lâu.

Người “neo giữ” biểu tượng bản sắc văn hóa dân tộc Dao

Ông Phùng Ngọc Hòa, người “giữ lửa” nghề làm nỏ truyền thống ở Bắc Kạn. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Trong căn nhà nhỏ giữa núi rừng, ông Phùng Ngọc Hòa (thôn Khuổi Đeng 2, xã Tân Sơn, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn) đã có gần 50 năm gắn bó với nghề làm nỏ. Ông là người duy nhất của vùng còn lưu giữ cách chế tác nỏ thủ công. Những chiếc nỏ từ lâu đã trở thành niềm tự hào của ông và là biểu tượng của bản sắc văn hóa dân tộc Dao nơi đây. Trải qua thời gian thăng trầm, nghề truyền thống này đang đứng trước nguy cơ mai một, bị quên lãng khiến ông trăn trở mỗi ngày.

TP Huế: Bảo tồn, phát huy giá trị phố cổ Gia Hội

Một góc phố cổ Gia Hội. (Ảnh: Thùy Nhung)
(PLVN) - Phố cổ Gia Hội (phường Gia Hội, quận Phú Xuân, TP Huế) từng là khu vực sầm uất bậc nhất của Kinh đô Huế đầu thế kỷ 19. Trải qua thời gian, nguồn di sản vô giá của khu phố cổ này đang mai một từng ngày. Trước thực trạng này, việc bảo tồn và phát huy giá trị khu phố cổ đang được chính quyền và người dân quan tâm.

Cấp phép khai quật chùa cổ thời Trần tại Hà Giang

Cấp phép khai quật chùa cổ thời Trần tại Hà Giang
(PLVN) - Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch vừa ban hành Quyết định số 656/QĐ-BVHTTDL cho phép Bảo tàng tỉnh Hà Giang khai quật khảo cổ tại Khu vực nền chùa cũ (chùa Ba Tự) thuộc thôn Bó Củng, thị trấn Yên Phú, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.

Chuyện ít biết về ngôi làng cổ niên đại hàng nghìn năm đất Kinh kỳ

Chuyện ít biết về ngôi làng cổ niên đại hàng nghìn năm đất Kinh kỳ
(PLVN) - Giữa lòng Hà Nội có một ngôi làng đã trên nghìn năm tuổi, đó là làng Hòa Mục, nằm nép bên bờ sông Tô Lịch. Hòa Mục là một trong bảy làng nổi tiếng của Hà Nội cổ. Không chỉ có công trong việc giúp Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng bao vây diệt trọn thành Tống Bình mà còn là làng nghề nổi tiếng làm giấy thời Lý.

Âm sắc làng Gốm - Làng Văn Bát Tràng

Khai mạc Hội làng gốm Bát Tràng vào tối 12/3/2025.
(PLVN) - Các vị trưởng bối, những vị "thuyền trưởng" của làng, những dòng họ của làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) vẫn ngày đêm giữ lò gốm đỏ lửa, nhiệt huyết phát huy tinh hoa văn hoá truyền thống và hội nhập...

Tưng bừng, trang nghiêm 100 năm Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc

Tưng bừng, trang nghiêm 100 năm Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc
(PLVN) - Ngày 14/3, tại Lăng ông Nam Hải (thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau) diễn ra lễ hội Nghinh ông. Đây là dịp để ngư dân vùng ven biển tỏ bày lòng thành kính loài cá Ông (cá Voi), loài cá được tôn kính là “Vị thần - Đại tướng quân Nam Hải”.

Đắm mình trong không gian văn hóa xứ Đoài với hội làng của người Lam Sơn

Đắm mình trong không gian văn hóa xứ Đoài với hội làng của người Lam Sơn
(PLVN) - Tháng 2, khi những cơn mưa phùn nồm ẩm giăng mắc khắp đất trời miền Bắc, cũng là lúc tiếng trống hội rộn ràng khắp các miền quê đồng bằng Bắc Bộ. Hội làng của người Lam Sơn (Thạch Thất - Hà Nội) được đánh giá là một trong những lễ hội còn lưu giữ rất nhiều nét đẹp của hội làng xưa, mang đậm không gian văn hóa xứ Đoài.

Về Ba Tơ thăm ngọn nguồn cách mạng

 Ông Võ Kim Cương từ TP HCM về lại nơi ba mình (Thiếu tướng Võ Bẩm) từng bị giam cầm. (Ảnh trong bài: P.V)
(PLVN) - Tám mươi năm đã trôi qua, nhưng lời thề sắt son “Hy sinh vì Tổ quốc” của Đội Du kích Ba Tơ ngày ấy vẫn còn mãi với thời gian, trở thành truyền thống cách mạng quý báu của lực lượng vũ trang Quân khu 5 và thấm vào từng trang sử sách để lại cho mai sau…

Chuyện về người phụ nữ cải trang thành nam nhi để đi thi

Văn Miếu Mao Điền Hải Dương- nơi Nguyễn Thị Duệ được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam.
(PLVN) - Việt Nam thời kỳ phong kiến thường coi trọng nam nhân. Các kỳ tú tài, đi học đa phần cũng chỉ dành cho “đấng mày râu”. Thế nhưng, vẫn có những người phụ nữ khao khát cháy bỏng được đi học. Lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một bậc nhi nữ phải cải trang thành nam để thi tài, kết quả đã vượt qua tất cả các sĩ tử khác, trở thành trạng nguyên đứng đầu khoa thi. Đó chính là Nguyễn Thị Duệ - nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử Việt Nam.