Dạy nghề truyền thống vẫn gò bó trong tư duy 'cha truyền con nối'

Các làng nghề có nhiều tiềm năng hỗ trợ người lao động phi chính thức có công ăn việc làm ổn định. (Ảnh minh họa: Duy Khánh)
Các làng nghề có nhiều tiềm năng hỗ trợ người lao động phi chính thức có công ăn việc làm ổn định. (Ảnh minh họa: Duy Khánh)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 5.400 làng nghề, mở ra tiềm năng rất lớn giải quyết việc làm cho hàng triệu người lao động. Tuy nhiên, vấn đề đào tạo nghề ở các làng truyền thống gặp rất nhiều khó khăn, phần lớn người lao động thuộc nhóm phi chính thức, công tác dạy nghề gò bó theo quan niệm “cha truyền con nối”...

Khó khăn học nghề truyền thống

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đầu năm 2024, tỷ lệ lao động có bằng, chứng chỉ đạt 28,1%, hơn 70% số lao động không được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Hiện nay, để trở thành một lao động chính thức, được bảo đảm về quyền lợi mỗi cá nhân cần có những chứng chỉ, bằng cấp ngắn hạn hoặc dài hạn để hành nghề. Ngoài các trung tâm dạy nghề, làng nghề đang là một địa điểm “truyền nghề” và tạo công ăn việc làm cho rất nhiều lao động. Số liệu cho thấy, hiện có 300 làng nghề được công nhận và có 30 - 40 làng nghề truyền thống. Hà Nội đã có kế hoạch đến năm 2030, thành phố sẽ tăng lên 1.300 làng nghề, giải quyết việc làm cho 1 triệu lao động.

Tuy nhiên, thực tế, việc học nghề ở các làng truyền thống gặp rất nhiều vấn đề khó khăn. Mới đây, tại buổi tọa đàm “Đào tạo nghề cho lao động phi chính thức trong nền kinh tế số: Thực trạng và các cơ hội” do Tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam và các đối tác phối hợp tổ chức, TS. Tôn Gia Hóa - Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho biết, phần lớn lao động ở các làng nghề là lao động phi chính thức, mặc dù có nghề, công việc rất ổn định, làm việc quanh năm, nhiều giờ trong ngày nhưng họ vẫn là phi chính thức bởi không có quản lý chính thức nào, không có hợp đồng lao động, không được bảo đảm về các chế độ an sinh xã hội như nghỉ thai sản, lương hưu... Đây là một thiệt thòi rất lớn cho những người lao động tại làng nghề.

Bên cạnh đó, ở các làng nghề việc dạy nghề, truyền nghề rất hạn chế. Theo truyền thống, các làng nghề ở Việt Nam dạy theo kiểu “cha truyền con nối”, phần lớn người theo nghề gốm, khảm trai, nấu xôi,... thuộc chi họ trong gia đình, trong làng. Nhiều nghệ nhân không nhận dạy nghề cho những người lạ đến xin học.

Ngoài ra, các trung tâm dạy nghề, trường học mong muốn mời các nghệ nhân về truyền kinh nghiệm, kiến thức cho học viên cũng gặp rất nhiều khó khăn. Trên thực tế có những nghệ nhân không có giáo trình, họ truyền đạt, dạy bằng cách truyền tay chỉ việc,... nên việc yêu cầu các nghệ nhân phải có bài giảng, giáo án rất khó khăn. Thực tế, có những nghề khó đưa lên giáo trình, nhiều chuyên gia đã về làng nghề truyền thống để giúp các nghệ nhân viết lại giáo trình nhưng cũng không khả thi. Có một số dự án thủ tục giấy tờ rất cồng kềnh, phải có thiết kế, báo cáo... nên thành quả dự án khó tiếp cận đến người dân ở các làng nghề.

Linh hoạt đào tạo nghề

Phát biểu tại Tọa đàm, ông Đào Trọng Độ - Vụ trưởng Vụ Đào tạo thường xuyên thuộc Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ LĐ-TB&XH cho biết, công tác đào tạo nghề cho người lao động nói chung, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, lao động phi chính thức nói riêng đã được quan tâm từ 2005. Đến năm 2009, thực hiện Nghị quyết số 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì tại Quyết định 146, công tác đào tạo nghề cho người lao động đã được luật hóa, trong đó quy định phụ nữ, lao động nông thôn, lao động phi chính thức khi tham gia học nghề trình độ sơ cấp và học nghề dưới 3 tháng được trợ cấp theo quy định của Chính phủ.

Từ sự luật hóa đó, công tác đào tạo nghề cho người lao động nói chung, lao động nông thôn, lao động phi chính thức nói riêng đặc biệt được quan tâm để hướng tới mục tiêu đặt ra là mỗi năm đào tạo được 1 triệu lao động nông thôn. Gần đây nhất, năm 2022 khi tổng kết Nghị quyết 26; Nghị quyết 19 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đẩy mục tiêu lên một mức nữa, đó là bình quân mỗi năm sẽ đào tạo 1,5 triệu người lao động. Tuy nhiên, với sự thay đổi nền kinh tế số hóa như hiện nay, các làng nghề, trung tâm đào tạo nghề cần phải chủ động, linh hoạt, bắt nhịp với nhu cầu thời đại để thu hút nhiều người lao động phi chính thức đăng ký học. Ví dụ như tổ chức các lớp học trực tuyến, kết hợp với thực hành tại các cơ sở sản xuất; mở những lớp đào tạo nghề phù hợp với mong muốn phần đông học viên..., theo ông Đào Trọng Độ.

Từ góc độ Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, TS. Tôn Gia Hóa - Phó Chủ tịch Hiệp hội đề xuất một số giải pháp để người lao động phi chính thức có thể được đào tạo ở các làng nghề: “Các làng nghề có đặc điểm sản xuất mang tính chất thủ công và truyền thống cần có đặc thù riêng, trong chính sách đối với các làng nghề truyền thống nên có một chế độ đặc biệt trong công tác đào tạo để duy trì làng nghề. Bên cạnh đó, chính sách ưu tiên cho đào tạo thì nên để ý đến vấn đề nghề truyền thống và nghệ nhân truyền dạy phải có bề dày được cộng đồng làng công nhận. Mời nghệ nhân nào ở trong làng mà khi đưa ra, mọi người đều muốn theo học. Đồng thời nên có những quy định đặc thù đối với làng nghề truyền thống, như không thể bắt buộc các nghệ nhân phải soạn giáo án, trình chiếu trên máy tính...”.

Với vấn đề này, ông Đào Trọng Độ nêu ý kiến công tác truyền nghề, kèm nghề của các làng nghề, nghệ nhân đang gặp khó khăn do quy định tổ chức đào tạo yêu cầu hồ sơ chặt chẽ. Tới đây, Bộ LĐ-TB&XH sẽ có hướng dẫn, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành sửa Thông tư về quy định đào tạo nghề, trong đó có phần đào tạo kèm cặp nghề, truyền nghề để phù hợp công tác đào tạo nghề của các nghệ nhân.

Bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Tin cùng chuyên mục

Văn Miếu Mao Điền Hải Dương- nơi Nguyễn Thị Duệ được thờ cùng Khổng Tử và bảy vị Đại khoa danh tiếng của Việt Nam.

Chuyện về người phụ nữ cải trang thành nam nhi để đi thi

(PLVN) - Việt Nam thời kỳ phong kiến thường coi trọng nam nhân. Các kỳ tú tài, đi học đa phần cũng chỉ dành cho “đấng mày râu”. Thế nhưng, vẫn có những người phụ nữ khao khát cháy bỏng được đi học. Lịch sử Việt Nam cũng đã từng có một bậc nhi nữ phải cải trang thành nam để thi tài, kết quả đã vượt qua tất cả các sĩ tử khác, trở thành trạng nguyên đứng đầu khoa thi. Đó chính là Nguyễn Thị Duệ - nữ trạng nguyên duy nhất trong lịch sử Việt Nam.

Đọc thêm

Gìn giữ bản sắc văn hóa các chợ tình vùng cao

Các chàng trai, cô gái đến với chợ Phong Lưu Khâu Vai. (Ảnh: Minh Tiến)
(PLVN) - Chợ tình của các dân tộc không nhằm mục đích mua bán, mà là nơi hội tụ của các chàng trai, cô gái, của những đôi lứa yêu nhau mà không lấy được nhau. Họ đến chợ mong gặp lại người tình xưa khi được sự đồng ý, tôn trọng của vợ/chồng mình hiện tại. Giá trị lớn nhất của chợ tình vùng cao là tính nhân văn sâu sắc. Có thể thấy, đây là một nét văn hóa đặc sắc hiếm có ở Việt Nam và trên thế giới.

Tái hiện huyền tích Linh Lang Đại vương

Đức thánh Linh Lang Đại Vương (Ảnh: PV)
(PLVN) - Chương trình nghệ thuật "Giao lưu trình diễn di sản văn hoá phi vật thể các di tích thờ Linh Lang Đại vương" với chủ đề “Linh Lang - Khí thiêng hội tụ - Long Biên tỏa sáng” sẽ tái hiện huyền tích Linh Lang Đại vương, tôn vinh tinh thần yêu nước và công tác trị thủy của nhân dân, niềm tin, khát vọng trong kỉ nguyên vươn mình của dân tộc.

Lễ hội Nữ tướng Lê Chân - Nét đẹp văn hóa, tinh thần người dân thành phố Cảng

Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân năm 2024. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Những ngày này, quận Lê Chân (Hải Phòng) tất bật chuẩn bị cho Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân năm 2025. Hơn thập niên qua, kể từ khi được phục dựng lại, lễ hội truyền thống này luôn được duy trì và phát triển nhằm khẳng định và tri ân công lao to lớn với vị nữ tướng tài ba, người đặt nền móng cho TP Hải Phòng ngày nay.

Tư tưởng vượt thời gian của Trạng nguyên đất học

Tư tưởng vượt thời gian của Trạng nguyên đất học
(PLVN) - Đỗ Trạng nguyên ở tuổi 50, Vũ Tuấn Chiêu không chỉ để lại bài học về ý chí kiên trì, mà còn là tư tưởng tiến bộ về xây dựng đất nước hùng cường. Ông là vị Trạng nguyên thứ 13 của nước ta và là Trạng nguyên thứ 5 của triều Hậu Lê. Vũ Tuấn Chiêu nguyên quán làng Xuân Lôi, xã Cổ Da, huyện Tây Chân (nay thuộc xã Nam Hùng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), quê mẹ tại xã Nhật Chiêu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên (nay thuộc phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội)...

Lễ hội đua thuyền - di sản văn hóa dân gian độc đáo

Nghi lễ cúng sông được thực hiện trước khi khai mạc Lễ hội. (Ảnh: PV Lai Châu)
(PLVN) - Với những chiếc thuyền rồng cuốn hút và những trận đua kịch tính trên mặt nước, lễ hội đua thuyền là nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng thờ thần sông, thần nước của người dân sống ở vùng sông nước, với mong ước sóng yên, biển lặng, tôm cá đầy ắp thuyền, ghe. Không chỉ nổi tiếng trong nước, lễ hội đua thuyền cũng đã ghi dấu ấn và thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế, trở thành một di sản văn hóa dân gian độc đáo và đầy hấp dẫn của Việt Nam.

Cổ tự mang giá trị độc đáo ở Bắc Giang

Ngôi chùa hàng trăm năm tuổi với kiến trúc cổ kính. (Ảnh: Báo TT-VH)
(PLVN) - Chùa Vẽ còn được biết đến với tên gọi Huyền Khuê Tự không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc và lịch sử mà còn là một nơi linh thiêng, phản ánh sự phát triển của Phật giáo và nghệ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam. Đặc biệt, ngôi chùa được gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử, đặc biệt trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nơi đây là nơi tụ hội của các bậc tướng lĩnh và người dân trong các thời kỳ.