Nơi vó ngựa thảo nguyên phải dừng bước
Ở thế kỷ XIII, trong vòng ba chục năm, quân và dân Đại Việt đã tiến hành liên tiếp ba cuộc kháng chiến, giành thắng lợi oanh liệt trước một đối thủ xâm lược hùng mạnh và tàn bạo vào bậc nhất trong lịch sử lúc đó, đế quốc Mông - Nguyên. Nhiều nhà sử học trên thế giới và trong nước đã, đang và sẽ còn nghiên cứu, phân tích ngày càng rõ ràng, chính xác hơn về 3 cuộc kháng chiến quyết liệt và tài tình của dân tộc Đại Việt.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin dẫn lại ý kiến tổng kết của chính Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – vị quốc công tiết chế, “linh hồn” của ba cuộc kháng chiến chống Nguyên vĩ đại. Khi Hưng Đạo Vương đã lui về nghỉ ở Vạn Kiếp và lúc sắp mất, nhà vua vẫn còn hỏi ý kiến của Vương về sách lược giữ nước.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”. Ông trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau.
Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt.
Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được.
Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy". Những lời trên của Trần Hưng Đạo nói với vua Trần Anh Tông có thể coi là những lời tổng kết của một người đã cả đời gắn với trận mạc. Và cũng là những lời di huấn, dạy bảo vẫn còn những giá trị, có thể xem là “báu vật” cho muôn đời con cháu.
Kế thanh dã “vườn không nhà trống”
Trong ba cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt (1258, 1285 và 1288), quân Nguyên - Mông đều xác định Thăng Long là mục tiêu chủ yếu vì Thăng Long là kinh đô của nước Đại Việt, chiếm được Thăng Long cũng có nghĩa là chiếm được đầu não. Nhưng quân dân Đại Việt đã biết tránh “ngọn gió to” để làm nhụt nhuệ khí địch, lấy trường kỳ kháng chiến thắng đại quân hùng mạnh.
Trong cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất (1258), sau khi chiếm được thành Thăng Long, quân Mông Cổ chỉ đóng quân được ở đây trong không đầy nửa tháng. Bởi hưởng ứng và thực hiện mệnh lệnh của triều đình, nhân dân kinh thành đã dùng kế “thanh dã” khiến quân địch rất khó cướp được lương thực; trong lúc lương thực mang theo để nuôi quân cứ cạn dần, giặc bị rơi vào tình trạng thiếu lương, lại không quen thủy thổ, quân lính đau ốm nhiều…
Trong khi đó, quân và dân nhà Trần không ngừng tiến hành những trận đánh nhỏ, lẻ; ngày đêm tập kích và phục kích đồn trại giặc; đột nhập, đốt phá các kho lương, kho cỏ ngựa của giặc và ra sức chuẩn bị phản công. Rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”, tướng giặc là Ngột Lương Hợp Thai không có cách gì hơn là định ngày lui quân.
Khác với lần tấn công thứ nhất, trong lần tấn công thứ hai, quân Nguyên Mông chia thành nhiều hướng quân tiến vào Đại Việt. Lần này tướng Trần Quốc Tuấn cho quân bảo vệ vòng ngoài kinh thành, chiến đấu cầm cự với địch để triều đình và nhân dân có thời gian rút lui, bỏ trống kinh thành và vùng ven. Thoát Hoan nhanh chóng chiếm được kinh thành và chờ đợi quân từ phía nam lên.
Từ trái qua: Tượng vua Lê Đại Hành, vua Ngô Quyền và Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo trong Khu di tích Bạch Đằng (Hải Phòng). |
Tuy nhiên cánh quân phía nam của chúng đã bị các cánh quân của nhà Trần tiêu diệt. Trong khi đó, ở các vùng sau lưng địch, các đội dân binh phối hợp chặt chẽ với một bộ phận phân tán tại chỗ của quân triều đình, ngày đêm hoạt động ráo riết, liên tiếp đánh vào các căn cứ đóng quân và các đội đi cướp lương, gây cho địch nhiều tổn thất. Cuộc chiến kéo dài đến mùa hè làm cho quân Nguyên Mông phát sinh bệnh tật, ốm đau triền miên.
Lợi dụng cơ hội đó, quân dân nhà Trần phản công chiến lược, quân Nguyên Mông không trụ được chúng đành phải rút lui khỏi Thăng Long. Sau hai lần thất bại, quân Nguyên - Mông vẫn không từ bỏ ý chí xâm lược. Rút kinh nghiệm từ hai lần thất trước, lần xâm lược thứ 3 năm 1288, quân Nguyên - Mông chuẩn bị kỹ lưỡng, với tổng số 30 vạn quân cùng 17 vạn thạch lương. Dưới sự tổng chỉ huy của Trấn Nam Vương Thoát Hoan, quân Nguyên - Mông cho quân bộ tiến trước và quân thủy chở lương tiến qua vùng biển Đông Bắc vào Thăng Long.
Trước thế giặc mạnh, nhà Trần đã chủ trương và dùng phục binh ngăn chặn cuộc tiến công của đại binh giặc càng lâu càng tốt; đồng thời, sử dụng kế sách “vườn không nhà trống”, bỏ ngỏ thành Thăng Long, rút lui về vùng đất Thanh Hóa.
Mới ít ngày ở Thăng Long quân địch đã rơi vào tình trạng thiếu lương thực, vì quân tải lương không theo kịp quân chiến đấu; nhân dân trong thành lại bỏ đi hết, muốn cướp được lương thực của dân thì quân địch phải chia lẻ từng toán, rời xa nơi đồn trại… Tận dụng thời cơ, quân dân nhà Trần phục kích, tiêu diệt địch một cách hiệu quả. Nhân lúc địch đang rối loạn, vua Trần một mặt giả sai sứ sang trại giặc xin hòa ước; mặt khác, lại cho quân cảm tử đánh phá doanh trại giặc vào ban đêm.
Rơi vào thế bí, Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đi đón đoàn thuyền lương thảo bằng đường biển do Trương Văn Hổ chỉ huy. Tuy nhiên đoàn quân lương của quân Nguyên Mông đã bị tướng Trần Khánh Dư đánh cho tan tác, mất toàn bộ số lương thực, khí giới.
Không thể kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt khi lương thảo nuôi quân đã bị cạn kiệt, tháng 4/1288, Thoát Hoan buộc phải cho rút quân về nước. Ba lần đánh chiếm quân Thăng Long, quân Nguyên Mông đều thất bại đã cho thấy sự thành công của kế sách “thanh dã” - “vườn không nhà trống”. Kế sách này không chỉ thực hiện ở Thăng Long mà cả các vùng xung quanh kinh thành, kết hợp với những chiến thuật đánh lấn hợp lý đã làm nên thắng lợi vang dội của vua tôi nhà Trần.