“Nửa đêm truyền Hịch định ngày xuất chinh”…

Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” và Vua Quang Trung đại phá quân Thanh. (Ảnh: Internet)
Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” và Vua Quang Trung đại phá quân Thanh. (Ảnh: Internet)
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) -Câu thơ trên trích trong “Chinh phụ ngâm khúc”, nói về chàng trai tuổi trẻ hào kiệt “xếp bút nghiên theo việc đao cung” khi nước nhà có họa xâm lăng. Những bài hịch, cáo được vang lên khi đất nước trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đó chính là thông điệp lịch sử sống mãi.

Lời cha ông vọng mãi

Lịch sử dựng nước và giữ nước luôn gắn liền với những bài hịch, cáo… Sức mạnh của nó đã trở nên bất hủ trong cuộc hành trình của dân tộc, nó đã trở thành các tác phẩm văn chương tiêu biểu trong dòng văn học sử. Dù đang sống trong thời bình, nhưng khi đọc “Hịch tướng sĩ” hay “Bình Ngô đại cáo”… vẫn thấy âm vang của những ngày cả nước cùng ra trận.

Bài thơ “Thần” thời nhà Lý với câu bất hủ “Sông núi nước Nam Vua Nam ở” hay “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi với những câu ngàn năm vẫn còn vang vọng: “Như nước Ðại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/Núi sông bờ cõi đã chia/Phong tục Bắc Nam cũng khác/Từ Triệu, Ðinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương...”. Nước Nam dù nhỏ nhưng chưa bao giờ là nước yếu, so với các nước vẫn luôn có chỗ đứng riêng. Điều đó không chỉ được chứng minh trong lịch sử mà còn được ghi nhận như một sự thực hiển nhiên, được sách trời ghi lại.

“Bình Ngô đại cáo” là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập.

Tác phẩm được coi là “thiên cổ hùng văn” đầy bi tráng trong cuộc trường chinh gian nan của nhà Lê chống giặc Minh. Có nhiều ý kiến cho rằng: đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam sau bài thơ “Nam quốc sơn hà”.

Người xưa phần lớn là ít được học hành, nhưng khi có lời hiệu triệu từ triều đình thì quân sĩ cùng nhân dân đồng hành với triều đình vùng lên chống quân xâm lược. Hai loại hình thúc giục được tinh thần chiến đấu của nhân dân là cáo và hịch.

Lịch sử còn ghi, tháng 12 năm Giáp Thân 1284, hiệu Thiệu Bảo năm thứ 6, đời Trần Nhân Tông, đại binh Thoát Hoan tiến đánh Chi Lăng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn thất thế đưa quân chạy về Vạn Kiếp.

Vua Nhân Tông thấy thế giặc mạnh, cho mời Hưng Đạo Vương về Hải Dương mà phán rằng “Thế giặc to như vậy, mà chống với chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để cứu muôn dân?”…

Vương tâu: “Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn, Miếu xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng”! Vua nghe thế yên lòng.

Hưng Đạo Vương trở về Vạn Kiếp hiệu triệu 20 vạn quân Nam và thảo bài “Dụ chư tỳ tướng hịch văn” (thường gọi là “Hịch tướng sĩ”) để khuyên răn tướng sĩ, đại ý khuyên binh sĩ học tập và rèn luyện võ nghệ, khuyên các tướng học tập trận pháp theo sách Binh thư yếu lược, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2.

Trong “Việt Nam sử lược”, Trần Trọng Kim ghi rằng binh sĩ nghe lời hịch nức lòng, lấy mực xăm vào tay hai chữ: “Sát Thát” (nghĩa giết quân Mông Cổ) và hết lòng chiến đấu chống giặc.

Để kêu gọi tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã viết “Hịch tướng sĩ”, một áng thiên cổ hùng văn, truyền đến ba quân khí thế, tinh thần quyết chiến quyết thắng: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Trần Quốc Tuấn truyền một tinh thần rất mạnh mẽ, nhắn nhủ tướng sĩ hãy bỏ đi thú vui tầm thường và xác định kẻ thù trước mắt mình là quân Nguyên Mông, nếu không quyết đánh thì hổ thẹn với tổ tiên, nỗi nhục thân phận nô lệ.

Ngày 22/12/1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở phía Nam núi Ngự Bình (Huế) tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung (ánh sáng ở trung tâm). Ngay trong lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã đọc bài “Hịch xuất quân”. Bài hịch chỉ có 35 chữ mà khái quát rất nhiều tầng ý nghĩa và mang một phong thái đĩnh đạc, hùng tráng:

“Ðánh cho để dài tóc/Ðánh cho để đen răng/Ðánh cho nó chích luân bất phản/Ðánh cho nó phiến giáp bất hoàn/Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.

Bài hịch (còn có tên là “Hịch đánh Thanh” hoặc “Lời hiếu dụ tướng sĩ”) chỉ có 5 dòng mà chữ “đánh cho” được lặp lại đến 5 lần. Ðó là một lời kêu gọi đánh giặc, đúng hơn là phải đánh tan quân giặc.

Nhà vua nhấn mạnh “Ðánh cho để dài tóc”, “Ðánh cho để đen răng”, là đánh để giữ phong tục, tập quán, truyền thống riêng của ta; tức là đánh giặc để ta được là ta, để ta không bị đồng hóa.

Ðó là “Ðánh cho chúng chích luân bất phản”, “Ðánh cho chúng phiến giáp bất hoàn”, là đánh cho giặc đến một bánh xe cũng không thể quay về nước, đồng thời, một mảnh áo giáp cũng không còn nguyên vẹn. “Ðánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Câu này có nghĩa là đánh để biết nước Nam anh hùng có chủ, tức là đánh để bảo vệ độc lập, tự chủ của dân tộc.

Những áng văn lay động tâm can

Cụ Đồ Chiểu chỉ là một nhà thơ mù, sinh thời cụ cũng không có chức tước gì, đã viết “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” làm nên một tác phẩm bi hùng, nhân bản cho nền văn học Việt Nam.

Giọng thơ bi thiết, hào sảng, dữ dội, dịu dàng, khi đôn hậu, lúc quật cường ấy chính là giọng điệu chủ của văn học viết về chiến tranh, cuộc chiến tranh bắt đầu từ người dân, người lính, những nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp đã làm nên đất nước này và thề gìn giữ đất nước này.

Cũng như “Hịch tướng sĩ”, Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những lời hịch có sức lan tỏa và làm lay động lòng người, thôi thúc hơn 20 triệu đồng bào cả nước vùng lên giành chính quyền, làm một cuộc đổi đời trong Cách mạng Tháng Tám 1945.

Ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân (còn được coi là Hội nghị Diên Hồng) họp tại Tân Trào thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tới toàn thể đồng bào.

Trong thư gửi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Hỡi đồng bào yêu quý! Bốn năm trước đây, tôi có thư kêu gọi đồng bào ta đoàn kết. Vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được độc lập, tự do”. Bác nêu rõ: “Hiện nay quân đội Nhật đã tan rã, phong trào cứu quốc lan tràn khắp nước. Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) có hàng chục triệu đội viên, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm đủ các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán.

Trong Việt Minh đồng bào ta bắt tay nhau chặt chẽ, không phân biệt trai, gái, già, trẻ, lương, giáo, giàu, nghèo. Vừa đây, Việt Minh lại triệu tập “Việt Nam Quốc dân đại biểu đại hội”, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập”.

Trong thư kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyến nghị toàn thể nhân dân thành một khối đoàn kết, bền chặt bên nhau cùng chống giặc: “Nhưng chúng ta chưa thể cho thế là đủ. Cuộc tranh đấu của chúng ta đương còn gay go, dằng dai. Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập. Việt Minh là cơ sở cho sự đoàn kết, phấn đấu của dân tộc ta trong lúc này. Hãy gia nhập Việt Minh, ủng hộ Việt Minh, làm cho Việt Minh rộng lớn mạnh mẽ”.

Đồng thời, Người kêu gọi: “Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cũng như Chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành khắp nước. Như vậy thì Tổ quốc ta nhất định mau được độc lập, dân tộc ta nhất định mau được tự do. Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.

Một “đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên, sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, thì những bài hịch, cáo, lời kêu gọi hay văn tế… đều có ý nghĩa rất lớn trong cách truyền tải thông điệp tới mọi người. Nó cũng chính là bài học lịch sử sâu sắc để người dân thấu hiểu, đồng lòng với người lãnh đạo trong cuộc trường chinh bất khuất, kiên cường của dân tộc.

Đọc thêm

Chiêm ngưỡng tác phẩm nghệ thuật và kỷ vật quý của vị vua yêu nước

Cuốn sách Hàm Nghi Hoàng đế lưu vong - nghệ sỹ ở Alger. (Ảnh: Thùy Dương)
(PLVN) - Những hậu duệ của Vua Hàm Nghi đã hiến tặng các tác phẩm nghệ thuật và kỷ vật quý của Vua Hàm Nghi cho các bảo tàng, di tích Việt Nam. Những tác phẩm nghệ thuật và kỷ vật hiến tặng ấy minh chứng sống động cho một giai đoạn đầy thăng trầm trong lịch sử Việt Nam. Việc hiến tặng các kỷ vật của Vua Hàm Nghi có ý nghĩa quan trọng đối với công tác bảo tồn di sản, tôn vinh các giá trị lịch sử của dân tộc. Các kỷ vật được hồi hương, mở ra thêm cơ hội để người dân trong nước, đặc biệt là thế hệ trẻ được chiêm ngưỡng và tìm hiểu về vị vua yêu nước.

Lễ cầu ngư, thả hoa đăng trên sông Đà

Lễ cầu ngư, thả hoa đăng trên sông Đà
(PLVN) - Tối 15/11, tỉnh Hòa Bình tổ chức Lễ cầu ngư, thả hoa đăng trên sông Đà. Đây là hoạt động nằm trong khuôn khổ của Lễ hội cá tôm sông Đà lần thứ 2 năm 2024.

Thành cổ giữa lòng thành phố Biên Hoà

Thành cổ giữa lòng thành phố Biên Hoà
(PLVN) - Thành cổ Biên Hoà được người dân xây dựng vào đầu thời nhà Nguyễn. Đến năm 1834 vua Minh Mạng thứ 18 cho đắp lại bằng đất theo hình cánh cung, bốn mặt thành đều dài 70 trượng, cao 4 thước 3 tấc, dày 1 trượng, mở 4 cửa hào rộng 2 trượng sâu 6 thước, đặt tên là Thành Cựu

Vang xa những làn điệu Quan họ Bắc Ninh

Hát Quan họ trên thuyền. (Ảnh: Thanh Tùng)
(PLVN) - Sau khi Dân ca Quan họ được vinh danh, Bắc Ninh có nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực nhằm thực hiện tốt cam kết với UNESCO về bảo tồn và phát huy giá trị của di sản thế giới. Nhân kỷ niệm 15 năm Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) tỉnh Bắc Ninh cho biết, từ ngày 11 - 30/11/2024 sẽ có nhiều hoạt động đặc sắc.

Thêm hiểu sâu sắc về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của dân tộc Việt Nam

NSND Vương Duy Biên, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng hoa chúc mừng Ban tổ chức chương trình. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Được sự nhất trí của UBND huyện, Phòng Văn hóa Thông tin huyện Cẩm Khê, hôm nay - ngày 10/11, Đảng ủy - Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Tuy Lộc và Ban quản lý di tích lịch sử Đình Hội tổ chức Lễ động thổ Đình Hội cùng các công trình phụ trợ và Tọa đàm Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

'Tấm vé' về với Hà Nội xưa

'Tấm vé' về với Hà Nội xưa
(PLVN) - Thủ đô nghìn năm văn hiến Hà Nội được ví như bảo tàng sống với hàng ngàn di tích lịch sử, văn hóa nổi bật. Vì thế, Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng bất tận, là đề tài rung động tâm hồn các nghệ sỹ trong nỗ lực gìn giữ văn hóa đất Kinh kỳ.

Đồng dao - Đi tìm di sản tuổi thơ xưa trong thời hiện đại

Đồng dao - Đi tìm di sản tuổi thơ xưa trong thời hiện đại
(PLVN) - Trong ký ức của nhiều thế hệ, đồng dao gắn liền với tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ vang vọng khắp sân làng, những trò chơi tuổi thơ đơn sơ mà thú vị. Những bài đồng dao ấy không chỉ là những lời ca vui vẻ, mà còn chứa đựng trong mình cả nền văn hóa, lịch sử và giá trị truyền thống của dân tộc.

Tôn vinh cây trà tổ 400 tuổi ở Suối Giàng

Tôn vinh cây trà tổ 400 tuổi ở Suối Giàng
(PLVN) -  Lễ hội tôn vinh cây trà tổ Shan tuyết hơn 400 tuổi được tổ chức trang trọng với nhiều hoạt động sôi nổi, đặc sắc nhằm gửi gắm ước mơ và cảm tạ trời đất đã ban phước lành cho dân bản. 

Rộn ràng Xẩm từ miền quê huyền thoại

Nhiều thế hệ cùng tham gia CLB hát xẩm Hà Thị Cầu.
(PLVN) - Ninh Bình được coi là một trong những cái nôi của Xẩm, gắn liền với cố nghệ nhân hát Xẩm nổi tiếng Hà Thị Cầu. Việc bảo tồn giá trị nghệ thuật hát Xẩm đang được tỉnh Ninh Bình thực hiện với mục tiêu tạo thành sản phẩm du lịch, góp phần định vị điểm đến của du lịch Ninh Bình trên bản đồ du lịch Việt Nam.

Về miền “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”…

Di tích Đền Trần Nam Định.
(PLVN) - Ở Nam Định, nếu như Đền Trần tượng trưng cho tín ngưỡng thờ Cha thì Phủ Dầy gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu (Mẹ). Nếu như Đền Trần có nghi lễ khai Ấn đêm 14 tháng Giêng thì Phủ Dầy gắn liền với chợ Viềng mỗi năm chỉ họp một phiên…

Sứ mệnh Hoa Lư sẽ trở thành đô thị cố đô - di sản

Du lịch miền di sản cố đô, điểm hẹn bốn mùa. Ảnh Sở Du lịch Ninh Bình.
(PLVN) - Theo các chuyên gia, Nghị quyết số 16-NQ/TU ngày 23/8/2023 của Ban Chấp hành Đảng bộ Ninh Bình về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2023 - 2030, trong đó mục tiêu đến năm 2025 sẽ định hình tính chất đơn vị hành chính mới sau hợp nhất thành phố Ninh Bình và huyện Hoa Lư là “Đô thị Cố đô - Di sản” là đúng đắn và có tầm nhìn…