Mưu hay trong trận Bạch Đằng
Theo sử sách, sau khi giết Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ để cướp quyền, Kiều Công Tiễn nghe tin con rể của ông là Ngô Quyền từ Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay) chuẩn bị đem quân ra đánh báo thù nên rất sợ hãi vội cho người sang cầu cứu Nam Hán. Sử chép: “Mậu Tuất, [938], (Tấn Thiên Phúc năm thứ 3).
Mùa đông, tháng 12, nha tướng của Đình Nghệ là Ngô Quyền từ Ái Châu cất quân đánh Công Tiễn. Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Hán. Vua Hán là Cung muốn nhân khi nước ta có loạn chiếm lấy nước, bèn cho con là Vạn Vương Hoằng Tháo làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, đổi tước phong là Giao Vương, đem quân sang cứu Công Tiễn. Vua Hán tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện.
Vua Hán hỏi kế ở Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Ích nói: "Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến". Vua Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh Quyền, nhưng Quyền đã giết Kiều Công Tiễn rồi.
Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: "Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát".
Định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Hoằng Tháo không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nữa. Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Người đẹp đất Trà Hương |
Theo bản Ngọc phả xã Lương Xâm (nay thuộc phường Nam Hải, quận Hải An, TP Hải Phòng) còn gọi là “Ngọc phả về Tiền Ngô Vương Thiên tử” thì người nghĩ ra mưu kế đóng cọc ngầm trên sông để phá đội thuyền chiến của quân Nam Hán chính là Ngô Xương Ngập. Trong bản Ngọc phả có đoạn cho biết khi Ngô Quyền “nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo với các tướng rằng:
"Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, mang quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, chí khí đã bị mất rồi. Ta lấy sức còn khỏe để địch với sức đang yếu, tất sẽ phá được địch".
Nói đến đây bỗng ở trong ban bộ có một người dâng lời, bảo rằng: "Quân địch có lợi thế ở chiến hạm, ta chưa chuẩn bị trước thì thắng thua chưa biết thế nào. Xin vương cho trồng cọc ở hai bên cửa biển, khi nước thủy triều dâng lên, sai người lấy thuyền nhẹ giao chiến với quân địch, giả dạng thua chạy để mà đánh, tất quân của Hoằng Tháo tự như ngói mà tan vỡ!". Vương cho là đúng, mới đưa mắt nhìn người nói, hóa ra là con trưởng Xương Ngập”.
Không chỉ hiến mưu hay kế lạ, trong trận Bạch Đằng lịch sử năm ấy, đích thân Ngô Xương Ngập còn trực tiếp chỉ huy một cánh quân đánh giặc.
Hai câu chuyện trong thời gian lánh nạn
Sau khi đất nước sạch bóng ngoại xâm, mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền lên ngôi, đóng đô ở Cổ Loa, “bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục” (Đại Việt sử ký toàn thư). Dã sử cho biết Ngô Quyền đã lập Ngô Xương Ngập làm Thái tử, để sau này kế thừa vương vị.
Làm vua chưa đầy 6 năm thì Ngô Quyền lâm bệnh mất vào năm Giáp Thìn (944), thọ 46 tuổi. Theo sử sách “Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có di chúc giao cho Tam Kha giúp rập cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp ngôi” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Lẽ ra theo di chiếu, triều đình sẽ tôn Ngô Xương Ngập lên làm vua nhưng Dương Tam Kha vì có công trong cuộc dựng nghiệp triều Ngô, lại là em trai của vương hậu, giữ chức Đô chỉ huy sứ nắm giữ binh quyền triều đình đã nhân cơ hội đó cướp ngôi của cháu, xưng là Dương Bình Vương.
Ngô Xương Ngập sợ bị hại đã bỏ trốn về Trà Hương thuộc Nam Sách Giang (nay thuộc làng Thuỵ Trà, xã Nam Trung, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), nương nhờ sự che trở của Phạm Chiêm (thường gọi là Phạm Lệnh Công).
Nhằm diệt trừ hậu họa, “Tam Kha sai chỉ huy sứ là Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem quân đến nhà Lệnh Công đòi bắt Xương Ngập, tất cả ba lần đều không thực hiện được mệnh lệnh. Lệnh Công sợ, bèn giấu Xương Ngập trong động núi. Tam Kha biết, lại đòi bắt như trước, rốt cuộc vẫn không bắt được” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Nơi mà Ngô Xương Ngập được đưa vào ẩn tránh chính là khu vực núi Côn, cây cối rập rạp trải rộng bốn phía. Tương truyền một lần quân của Dương Tam Kha lùng tìm nhưng không được mới phóng hỏa hun khói mù mịt để Ngô Xương Ngập phải ra hàng, thế nhưng mưu kế này thất bại.
Từ chuyện đó mà núi Côn còn có tên là núi Hun (Hun Sơn). Núi Côn chính là Côn Sơn, địa danh nổi tiếng ở đất Chí Linh, Hải Dương; một số công trình tôn giáo, tín ngưỡng ở đây được gọi theo tên núi, như chùa Thiên Tư phúc tự được gọi là chùa Côn Sơn, chùa còn có tên khác là chùa Hun.
Cũng trong thời gian lánh nạn ở Trà Hương, Ngô Xương Ngập được sự quan tâm, chăm sóc của Phạm Thị Uy Duyên, người con gái xinh đẹp, đức hạnh của Phạm Chiêm. Dần dần, tình cảm của vị Thái tử sa cơ với người con gái xứ Đông đã nảy nở, ngày càng quyến luyến, sâu đậm. Biết con gái có tình cảm sâu đậm với Ngô Xương Ngập, Phạm Chiêm vui mừng tán thành, vun vén cho tình cảm của họ, ông đã đồng ý gả con gái cho Thái tử và chọn ngày lành tháng tốt tổ chức hôn lễ.
Cuối năm Canh Tuất (950) em trai Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Văn được sự ủng hộ của một số tướng lĩnh đã bất ngờ đem quân vây kinh đô Cổ Loa, lật đổ ngôi vị của Dương Tam Kha giành lại ngai vàng cho họ Ngô và xưng là Nam Tấn Vương. Tiếp đó, đầu năm Tân Hợi (951) Nam Tấn Vương cho đón anh trai về kinh cùng làm vua.
Hai anh em vua Ngô cùng ở ngôi trị nước |
Ngô Xương Ngập lên ngôi xưng là Thiên Sách Vương, lập Phạm Thị Uy Duyên làm Thị Tùng phu nhân. Người vợ ấy sau này đã sinh hạ cho Ngô Xương Ngập hai người con trai là Ngô Xương Xí (sau kế vị ngôi vua của chú nhưng thế yếu nên trở thành một trong 12 sứ quân thời loạn) và Ngô Xương Tỷ (933-1011), sau xuất gia lấy đạo hiệu là Chân Lưu, trở thành một vị cao tăng danh tiếng thời Đinh – Tiền Lê và đầu triều Lý, được phong là Khuông Việt đại sư.
Ngô Xương Ngập, từ khi làm vua, dần dần ham mê quyền lực, đua tranh với vua em nên dẫn đến bất hòa. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Bấy giờ Thiên Sách Vương chuyên quyền làm uy, [Nam Tấn] Vương không được dự chính sự nữa. Hai vương do đó hiềm khích với nhau”.
Chính sử chép rằng Thiên Sách Vương mất năm Giáp Dần (954), Nam Tấn Vương mất năm Ất Sửu (965) và không cho biết thi hài hai vua được chôn cất tại đâu. Tuy nhiên theo tài liệu tại đền Kê Lạc (còn gọi là đền Vương, thuộc xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên ngày nay) và truyền tụng trong vùng thì khu vực đền là nơi an táng thi hài vua Ngô Quyền, Hoàng hậu Dương Thị Ngọc Thư (tức Dương Thị Như Ngọc) và nhị hậu Ngô vương (tức Thiên Sách Vương và Nam Tấn Vương).