Cuộc trao đổi tù binh gay cấn
Cơ duyên của cuộc trao đổi tù binh lại đến từ một trận chiến trên biển 3 năm trước đó. Tối ngày 1/7/1965, tại vùng biển miền Bắc Việt Nam giáp ranh hải phận cuộc tế, đã xảy ra một trận chiến đấu không cân sức giữa ba tàu của Trung đoàn 172 Hải quân nhân dân Việt Nam với hàng chục tàu chiến từ hạm đội 7 của Mỹ cùng hàng chục máy bay yểm trợ. Bốn chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đã hi sinh , toàn bộ thủy thủ đoàn 32 người còn lại bị sa vào tay giặc.
Ba năm sau, những thủy thủ còn lại trên ba tàu chiến của Trung đoàn 172 bị Mỹ giam cầm tại căn cứ quân sự trên đảo Honolulu giữa Thái Bình Dương. Một cuộc thương lượng được tiến hành. Mỹ sẽ trao trả cho ta 32 chiến sĩ hải quân ấy, đổi lại, phía ta sẽ trả lại 2 phi công có hạng bị bắt sống.
Cựu chiến binh Nguyễn Lự (SN 1942, ngụ thôn Động Dương, xã Bảo Ninh, TP. Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình), nhớ lại. Một ngày giữa tháng 10/1968, theo thỏa thuận đôi bên, một tàu chiến Mỹ được phép tiến sâu vào hải phận của ta phía ngoài khơi vùng cửa Sót (Thạch Hà, Hà Tĩnh). Các chiến sĩ của ta được địch cho ngồi vào một chiếc ca nô cứu sinh rồi thả xuống. Ngay lúc đó, trực thăng của không quân ta bay đến, dòng thang xuống cho hai phi công Mỹ leo xuống khoang tàu.
Cuộc trao đổi diễn ra chớp nhoáng. Xong, tàu Mỹ quay đầu chạy nhanh ra khơi. Những chiến sĩ của ta không thể leo thang dây lên máy bay trực thăng vì nhiều người, mất thời gian quá lâu, không đảm bảo an toàn, hơn nữa máy bay cũng không thể chở hết từng ấy người. Đành đi ca nô.
Ca nô của Mỹ do một chiến sĩ hải quân ta lái, chạy vào đất liền. Sai sót của Mỹ bắt đầu từ đây. Giặc không tính đến chuyện số phận của chiếc ca nô hiện đại bậc nhất quân đội Mỹ lúc ấy sẽ ra sao.
Đoàn thủy thủ 32 chiến sĩ cặp bờ, liền lên ngay ô tô về Hải Phòng. Chiếc ca nô được giao lại cho huyện đội Thạch Hà cất giữ.
Máy bay Mĩ hủy diệt ca nô Mĩ
Chuẩn úy Nguyễn Lự khi ấy nhận nhiệm vụ đặc biệt là đưa chiếc ca nô của Mỹ về nơi an toàn. Ông đề nghị một chiến sĩ làm trợ lý đi theo. Cả hai lên đường ngay. Sau hai ngày ròng rã đi bộ, họ đã có mặt tại xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh vào chiều 30/11/1968. Sau khi làm việc với huyện đội, các đồng chí ở đây cho biết, suốt mấy ngày qua, máy bay Mỹ quần đảo trinh sát và bắn phá khắp nơi trong vùng. Chúng muốn tìm cách hủy diệt chiếc ca nô đã sai lầm để rơi vào tay ta.
Đến hiện trường, chiếc ca nô nặng khoảng nửa tấn đã được kéo vào một khe cát có cây lá che phủ. Sau khi đổ thêm nhiên liệu, giở xem sơ đồ hướng dẫn và khởi động máy, tất cả đều vận hành tốt. Ông gật gù yên tâm.
Hoàng hôn xuống. Thủy triều dâng xóa nhòa bờ cát, mấp mé đáy ca nô. Dân làng và các chiến sĩ xúm nhau đẩy chiếc ca nô xuống nước. Từng đợt sóng trắng xóa ập vào. Tiếng người hò reo xen lẫn tiếng rì rào của sóng biển.
Bỗng nhiên, hai chiếc máy bay F4H của Mỹ hồng hộc từ đâu lao tới. Chúng đã phát hiện ra “con mồi” mất công tìm kiếm mấy ngày nay. Tiếng động cơ máy bay gầm rú xé vang trời. Một chiếc lượn vòng, một chiếc tăng độ cao để tạo thế trút bom đạn.
Mọi người không ai bảo ai, cùng gánh vai, dùng hết sức đẩy mạnh chiếc ca nô xuống nước, rồi vội vàng tản ra, sơ tán xuống hầm. Trong phút hiểm nguy ấy, chuẩn úy Lự nhảy lên ca nô ấn nút động cơ khởi động. Một tiếng rít khét lẹt man dại rồi tiếng nổ ầm ầm của loạt rốc két từ một chiếc F4H cắm xuống nước, cách mũi ca nô vài mét nước.
Quên chiếc ca nô hiện đại, Mỹ cho máy bay quần thảo truy tìm hủy diệt |
“Tôi bình tĩnh tăng tốc cho ca nô lao đi. “Thằng” F4H thứ hai lao xuống lại cắm phộc một loạt rốc két nữa”, ông Lự nhớ lại. Hình dích dắc đường đi của ca nô do ông điều khiển đã tránh được những cơn mưa đạn điên dại. Hai chiếc máy bay đuổi theo, cật lực trút bom đạn xuống. Chiếc ca nô cũng xé sóng biển lao đi, thoát khỏi những đường đạn một cách thần kỳ.
Ca nô chạy hết tốc lực đến địa phận xã Xuân Yên thì trời tối hẳn. Hai chiếc F4H có lẽ đã hết bom đạn, lại bị mất dấu vì trời tối, nên đã mất hút. Chuẩn úy Lự tắt máy, cho ca nô neo đậu trà trộn trong các thuyền đánh cá, nhảy xuống, bơi nhanh vào bờ. Thấy anh trở vào, người đồng đội lo lắng cứ nghĩ anh không thoát khỏi làn đạn địch, vui mừng khôn xiết. Họ khẩn trương sắp xếp chuẩn bị tiếp tục lên đường.
Hết đạn địch, lại vướng đạn… của ta
Hơn một tiếng sau, cuộc hành trình về căn cứ tiếp diễn. Chiếc ca nô băng băng lướt trên những con sóng nhấp nhô. Bỗng tiếng đạn nổ ầm ầm. Pháo của đơn vị bộ đội canh biển phát hiện thấy mục tiêu lạ liền nổ súng tiêu diệt. Chuẩn úy Lự phóng ca nô ra xa tránh hỏa lực, rồi nhắm hướng Đông Bắc thẳng tiến.
Không hải đồ, không có dụng cụ định vị, nhưng ý thức sự nguy hiểm có thể xảy ra nếu cứ ra xa sẽ gặp tàu chiến giặc, ông liền cho ca nô chạy chếch vào hướng bờ. Vầng sáng của ban mai đang hừng lên. Xa xa, trước mặt ông là một hòn đảo nhỏ. Đến gần chút nữa, ông nhận ra đó là Hòn Ngư. Ông quyết định cặp đảo.
“Đón tiếp” hai chiến sĩ Hải quân là những chiến sĩ Biên phòng canh đảo lăm lăm tay súng. Không rõ hai người là ai lại hiện diện ở một địa điểm quân sự quan trọng trên một chiếc ca nô Mĩ, họ bị những người canh đảo bịt mắt, dẫn về trung tâm theo một lối dốc mòn.
Ông Nguyễn Lự |
Khi được mở mắt, cởi trói, ngồi trong một ngôi nhà kín cửa, ông liền trao giấy thông hành quân vụ đặc biệt có vạch đỏ vắt chéo đè một phần trên ảnh chân dung, trưởng đảo mới vỗ vai, nhảy dựng lên: “Ôi, là người của ta!”.
Sau hơn 30 phút, qua bốn tổng đài chỉ huy, bộ phận cơ yếu đã chuyển cho ông bức điện của thủ trưởng: “Chúc mừng đồng chí hoàn thành nhiệm vụ an toàn. Ngày mai cứ đi ban ngày. Lệnh ngừng bắn tạm thời từ vĩ tuyến 19 trở ra của Mỹ đã có hiệu lực từ 0h đêm qua”.
Hôm sau, chiếc ca nô được lệnh rời đảo Hòn Ngư. Chuẩn úy Lự điều khiển đến một điểm hẹn bí mật trên biển. Ở đây, một con tàu đặc biệt mở khoang chờ sẵn. Chiếc ca nô của Mỹ được đưa vào khoang sâu. Sau đó, chiếc tàu nhổ neo hướng về cảng Hải Phòng. Sau này, về lại căn cứ, thủ trưởng cho ông biết đó là “mặt hàng” Liên Xô đang cần để nghiên cứu về công nghệ vỏ tàu trong ngành hàng hải của Mỹ.
Với chiến công ngày đó, ông Nguyễn Lự được trao tặng Huân chương Chiến sĩ vẻ vang và Huân chương Chiến công. Tuy nhiên, do sơ suất, cán bộ phụ trách công tác thi đua trong đơn vị đã phát nhầm cho ông một lúc hai Huân chương Chiến sĩ vẻ vang. Vì phải chuyển đơn vị để tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ cấp bách khác trong cơn lốc của chiến tranh, nên sự nhần lẫn về phần thưởng cao quý ấy của ông cho đến bây giờ vẫn chưa được thay đổi, hồi phục. Trên ngực ông vẫn đang lấp lánh hai huân chương cùng loại. “Đó là một kỷ niệm đáng nhớ của đời tôi”, ông Lự tự hào. Với ông, đó là sự nhầm lẫn thú vị.