Vàng son một thời: Nhà máy lương công nhân tương đương lương giám đốc

Vàng son một thời: Nhà máy lương công nhân tương đương lương giám đốc
(PLO) -Sau gần 120 năm tồn tại, năm 2003, Nhà máy Dệt Nam Định được xác định là cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng nên buộc phải di dời ra khỏi thành phố. Nhà máy đang trong giai đoạn chuyển đổi, để phục vụ cho việc xây dựng một khu đô thị dệt may “cốt lõi” của thành phố trong tương lai.

Sau gần 120 năm tồn tại, năm 2003, Nhà máy Dệt Nam Định được xác định là cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng nên buộc phải di dời ra khỏi thành phố. Nhà máy đang trong giai đoạn chuyển đổi, để phục vụ cho việc xây dựng một khu đô thị dệt may “cốt lõi” của thành phố trong tương lai.

Không khỏi không nuối tiếc khi nhớ về quá khứ vàng son của nhà máy từng một thời lừng lẫy cả xứ Đông Dương… Nhất là với nhiều thế hệ người dân Nam Định, đặc biệt là những gia đình có truyền thống gắn bó, từng thức ngủ theo tiếng còi nhà máy, những người nhờ đồng lương cha mẹ làm công nhân nhà máy mà trưởng thành… 

Công nhân sống khỏe vì “đặc sản” quần lụa đen

Nhà máy Dệt lụa Nam Định tiền thân là một cơ sở nghiên cứu về tơ lụa, do Toàn quyền Đông Dương De Lanessan dùng ngân sách Đông Dương lập ra. Đến năm 1898, Toàn quyền Paul Doumer đồng ý cho lập một nhà máy tơ chạy bằng hơi nước có sáu lò đặt ngay tại thành phố. 

Năm 1900, một số tư bản Pháp trong Công ty bông, vải, sợi Bắc Kỳ hùn vốn với một tư sản người Hoa cùng kinh doanh. Cùng năm này, xưởng sợi A và xưởng cơ khí được xây dựng. 

Năm 1924, số công nhân có 6.000 người. Năm 1929, Nhà máy Tơ Nam Định đã có 135 máy dệt. Đến cuối năm 1939, nhà máy đã có 3 nhà sợi, 3 nhà dệt, một xưởng nhuộm, một xưởng chăn, một xưởng cơ khí, một xưởng động lực..

Sau năm 1954, Dệt lụa Nam Định được Nhà nước tiếp quản từ tay tư bản Pháp. Do điều kiện chiến tranh và sự phá hoại của tư bản Pháp nên máy móc còn lại ít, đa phần bị hỏng. Sau thời gian tiếp quản, xí nghiệp phục hồi lại một số máy móc và tiếp tục hoạt động. 

Nhà máy Dệt Nam Định trong bưu ảnh thời thuộc địa.
Nhà máy Dệt Nam Định trong bưu ảnh thời thuộc địa.

Được sự trợ giúp của Nhà nước và nguồn hàng viện trợ của Trung Quốc, xí nghiệp đã nâng cấp nhà máy và được giao nhiệm vụ sản xuất lụa đen phục vụ cho thị trường miền Bắc. Thời đó, hầu hết phụ nữ miền Bắc đều mặc quần đen. Lụa đen là một gánh nặng mà Nhà nước phải lo cho 1/2 dân số, gần 10 triệu người. Mỗi người phụ nữ được quyền mua 2m lụa đen trong số 4 mét vải/năm trên tem phiếu. 

Cũng vì vậy mà sản phẩm của xí nghiệp làm ra bao nhiêu đều được Nhà nước tiêu thụ hết, sản phẩm dù tốt hay xấu đều được chấp nhận, vì cung vẫn thấp hơn cầu. Ngoài số lượng lụa sản xuất trong nước, Nhà nước còn xin viện trợ để nhập thêm lụa đen về mới tạm đủ. Do vậy, trong suốt giai đoạn này, nhà máy hoạt động tương đối bình thường, không có những khó khăn, ách tắc lớn.

Thời kỳ khủng hoảng, thợ dệt đi trồng rau, nuôi lợn

Cho tới năm 1977, cùng với sự cấm vận của Mỹ, Trung Quốc và một số nước khác cắt viện trợ, tình hình nhà máy bắt đầu khó khăn. Nhà nước không còn cung cấp đủ sợi, thuốc nhuộm, phụ tùng thay thế. Không có tơ, nhà máy phải đổi quy định công nghệ, dệt bằng sợi petec.

Đặc điểm của công nghệ này là năng suất thấp, vải sợi cứng và xấu, nhưng vì không còn thứ nguyên vật liệu nào khác nữa nên vẫn phải sử dụng. Tuy nhiên, nhà máy vẫn không đủ việc cho công nhân, phải cho 30% công nhân nghỉ việc, hưởng 70% lương.

Số còn lại cũng chỉ sản xuất cầm chừng và cũng phải thay phiên nhau nghỉ việc. Lương ít, phúc lợi xã hội hầu như không có gì. Ngân quỹ trống rỗng. Đời sống công nhân khó khăn.

Nguyên Trưởng phòng Đời sống của nhà máy thời điểm này kể lại: "Theo quy định của nhà nước, tiêu chuẩn cung cấp hàng tháng vốn đã rất thấp, đến lúc này thì ngay cả mức thấp đó cũng không đảm bảo được nữa. Gạo bán cho công nhân viên chức được quy định là 16kg với người làm 3 ca, 13kg với người làm hai tầm.

Nhưng đến giai đoạn này thì phải độn thêm ngô và bột mỳ. Tiêu chuẩn 13kg chỉ còn 9kg gạo, còn 4kg là độn. Về thịt, quy định của Nhà nước là mỗi công nhân làm nặng nhọc được 0,5kg/tháng, những người không trực tiếp sản xuất thì 0,3kg/tháng.

Nhà máy Dệt Nam Định nhiều lần được Bác Hồ đến thăm.
Nhà máy Dệt Nam Định nhiều lần được Bác Hồ đến thăm.

Nhưng đến giai đoạn này, nhiều khi thịt cũng không có, mỗi suất ăn cho công nhân phải được tính không phải là cân, là lạng, mà là hoa, tức là 10gram". Làn sóng chán nản trong xí nghiệp đã xuất hiện.

Đứng trước những khó khăn đó, Nhà máy phải tìm một số biện pháp tình huống: Cho một số công nhân nghỉ việc vào xin một quả đồi ở nông trường Đồng Giao, cách đó gần 50km, để nuôi bò; kết hợp với một số hợp tác xã để tổ chức làm một số ngành nghề, tuy trái với nghề thợ dệt nhưng dù sao cũng còn có công ăn việc làm; kết nghĩa với các hợp tác xã để lấy đất trồng rau và nuôi lợn, đào đất đóng gạch để bán; xin địa phương cho mượn một cái ao để vừa nuôi cá, vừa thả bèo để lấy bèo nuôi lợn...

Xây khu nghỉ dưỡng cho công nhân hưởng tuần trăng mật

Từ năm 1983, lãnh đạo Nhà máy còn đặt vấn đề lo 100% nhà ở cho công nhân. Nhà máy đứng ra xin chính quyền địa phương cấp đất từ 100 - 200m2 cho mỗi gia đình tự xây nhà, nhà máy có thể giúp đỡ một phần. Những người không muốn tự xây nhà thì nhà máy xây nhà tập thể và cấp cho công nhân, mỗi gia đình từ một đến hai phòng, tùy theo nhân khẩu. Đến nay, một phần rất lớn công nhân vẫn còn ở trong những căn nhà phúc lợi đó.

Do liên doanh liên kết với các địa phương, Nhà máy Dệt lụa Nam Định còn thỏa thuận với chính quyền tỉnh Thanh Hóa cắt cho một mảnh đất ở bãi biển Sầm Sơn, xây dựng một nhà nghỉ tại đó để cán bộ công nhân viên nghỉ hè và nghỉ phép. Đặc biệt, nhà nghỉ này còn ưu tiên dành phòng cho những cặp vợ chồng mới cưới ra hưởng tuần trăng mật. Trong những điều kiện đương thời của đất nước, điều đó quả là hiếm ở đâu có thể thực hiện được.

“Liều thuốc” ngoại tệ nhập nguyên liệu và thiết bị

Chính lúc này, Phó Giám đốc nhà máy là kỹ sư Trần Minh Ngọc được cử làm Giám đốc. Là người từng làm việc lâu trong cương vị Phó Giám đốc, ông Ngọc rất hiểu tình hình.

Ông nhẩm tính: Nếu có một số ngoại tệ làm đà, sẽ nhập được nguyên liệu và thiết bị để tổ chức sản xuất. Những sản phẩm đó có thể tiêu thụ trên rất nhiều kênh, không chỉ thu về tiền đồng Việt Nam mà còn có thể thu về ngoại tệ.

Nếu tự cân đối được ngoại tệ để tổ chức sản xuất, không chỉ duy trì ở mức hiện nay, mà còn có thể mở rộng hơn, nâng cao sản lượng, tạo công ăn việc làm cho công nhân, nâng mức thu nhập, cải thiện đời sống...

Bài toán đó xét về logic là suôn sẻ. Nhưng theo cơ chế lúc đó thì lại không khả thi. Về nguyên tắc, cơ quan được thay mặt Nhà nước để quản lý ngoại tệ là Ngân hàng Ngoại thương.

Ngân hàng này chỉ được phép cung cấp ngoại tệ cho những đơn vị có chức năng kinh doanh gắn với ngoại tệ. Đó là Bộ Ngoại thương và các công ty xuất nhập khẩu. Tất cả việc nhập khẩu để sản xuất và giao nộp hàng để xuất khẩu đều phải qua các cơ quan ngoại thương. 

Giám đốc Trần Minh Ngọc nghĩ ra một con đường mà ông gọi là "lách cơ chế chứ không chống cơ chế": Xí nghiệp không trực tiếp đứng ra vay ngoại tệ nhưng thỏa thuận ngầm với ngân hàng Vietcombank và các công ty ngoại thương rằng: Xí nghiệp là người chịu trách nhiệm trực tiếp với Vietcombank về số ngoại tệ mà các công ty ngoại thương định vay. 

Hầu hết các công ty xuất nhập khẩu, lúc đó gọi là các Unimex, đều đồng tình. Vì nếu không bắt tay với người sản xuất thì họ không thể nào kinh doanh xuất khẩu được. Ngân hàng cũng gật đầu.

Sau đó, cả ba bên thống nhất giải pháp: Về danh nghĩa, các Unimex đứng ra vay tiền của Vietcombank, có giải trình phương án thu mua hàng xuất khẩu. Cơ sở có khả năng thực tế đảm bảo sản xuất hàng xuất khẩu chính là Nhà máy Dệt lụa Nam Định. Thị trường xuất khẩu thì các Unimex đã có sẵn. Cuộc liên kết tay ba bắt đầu từ đó.

Lãnh đạo Nhà máy còn tính đến giải pháp rộng hơn và thiết thực hơn: Khai thác thị trường trong nước. Mặt hàng lụa xuất khẩu đòi hỏi chất lượng cao. Muốn tạo được thói quen của người tiêu thụ ở nước ngoài, cần phải có thời gian. Trong khi đó, trên thị trường nội địa, lụa là mặt hàng rất quý hiếm, có thể nói là "đắt như tôm tươi”.

Nếu đem lụa đó trao đổi với các địa phương, với nông dân, với các hợp tác xã, có thể thu được những nông sản có giá trị xuất khẩu. Nhà máy đem vải lụa đổi lấy lạc, vừng, đỗ tương và đỗ xanh.

Còn nông dân, thay vì giao nông sản cho các Unimex, nay giao cho nhà máy, nhà máy lại giao những thứ nông sản đó để cho các Unimex xuất khẩu thu ngoại tệ. Như vậy, một hình thức liên kết tay bốn đã hình thành.

Giữa năm 1980, cuộc thử nghiệm bắt đầu. Vietcombank xuất 30.000 USD cho Nhà máy Dệt lụa Nam Định vay theo thỏa thuận ngầm, còn về hình thức là giao cho Unimex của Hà Nam Ninh nhận. Unimex nhập một số tơ của Nhật về giao cho nhà máy để tổ chức sản xuất. 

Liều thuốc ngoại tệ này hiệu nghiệm ngay: Nhà máy có đủ việc làm cho công nhân, có sản phẩm giao nộp cho ngoại thương, ngoài ra còn thu được một số lãi bằng ngoại tệ để dự trữ.

Trên cơ sở thành công bước đầu, nhà máy lại tiếp tục phương án liên doanh liên kết: Vay thêm ngoại tệ, ngoài việc nhập khẩu tơ và sợi còn nhập thêm thuốc nhuộm để đa dạng hóa mặt hàng. Tình hình năm 1980 nhờ đó đã khả quan hơn. 

“Đa zi năng” vừa sản xuất, vừa gia công

Không thỏa mãn với những thành tích khiêm tốn mới đạt được, ban lãnh đạo nhà máy vẫn không ngừng suy tư tìm cách đột phá tiếp. Còn một trở ngại: Thiết bị quá cũ kỹ, không thể nào làm ra những mặt hàng có chất lượng cao để có thể chinh phục được thị trường thế giới. Nếu giải quyết được khâu này thì sẽ mở ra được một "chân trời" rộng hơn, xa hơn. 

Nhưng việc đó không thể chỉ giải quyết bằng đầu óc và nhiệt tình, mà phải bằng kỹ thuật. Cho đến lúc này, thế giới đã không còn bán những thứ lụa thông thường như thời thực dân Pháp sản xuất, mà đã có những loại lụa phẳng, mịn, bóng, không nhàu... Muốn làm được những mặt hàng như thế, phải có một loại máy mà trong kỹ thuật gọi là máy văng sấy định hình.

Sau khi lụa dệt xong, phải dùng máy này để xử lý lụa, từ đó sẽ tạo được chất lượng lụa xấp xỉ chất lượng lụa trên thế giới. Mỗi chiếc máy đó khoảng hơn 100.000 đô la. Vào lúc đó, tất cả các nhà máy dệt trong nước từ Bắc chí Nam chưa có nhà máy nào có nổi. 

Lãnh đạo Nhà máy quyết định đặt vấn đề vay ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương để nhập chiếc máy này, với niềm tin sắt đá rằng: Sẽ không chỉ hoàn lại số tiền nhập máy, mà còn tạo thêm ra rất nhiều ngoại tệ.

Quý I năm 1981, chiếc máy đã được đưa về và được vận hành ngay. Tất cả cán bộ, công nhân, viên chức đều hân hoan trước loại sản phẩm mới, mà từ ngày thành lập đến nay, nhà máy chưa từng sản xuất ra. Thị trường được mở rộng, không chỉ Unimex của thành phố Nam Định, mà rất nhiều Unimex của các tỉnh khác cũng muốn hàng của nhà máy, vì nó có sức thu hút ngoại tệ rất mạnh.

Người xưa thường nói "phúc bất trùng lai", nhưng lần này thì ở đây "phúc" đã "trùng lai": Chiếc máy có công suất quá lớn, không chỉ phục vụ cho sản lượng của một Nhà máy Dệt lụa Nam Định mà còn có thể làm gia công cho các xí nghiệp khác trên cả nước chưa có máy.

Quả nhiên, từ giữa năm 1981, tiếng lành đồn xa, tất cả các xí nghiệp dệt lụa trên các tỉnh phía Bắc đều sớm “tỉnh ngộ” rằng: Mặt hàng lụa của họ làm rất công phu, nhưng vì không có máy văng sấy hiện đại nên chất lượng vẫn chỉ là "cổ truyền". Do đó, họ đã kìn kìn chở sản phẩm của mình đến để thuê Nhà máy Dệt lụa Nam Định hoàn thiện khâu cuối cùng này. 

Như thế, chiếc máy tưởng là thừa công suất ấy nay đã phải chạy hết công suất, phải bố trí thêm nhiều công nhân đứng máy, chạy hết ba ca mà không hết việc. Công nhân có thêm việc làm, xí nghiệp có thêm thu nhập.

Cũng từ năm 1981, với một hệ thống thiết bị và cung ứng nguyên vật liệu đã đổi mới, Nhà máy Dệt lụa Nam Định có khả năng sản xuất ra những mặt hàng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu cho Liên Xô, Đông Âu, Nhật.

Ngoài phần giao cho các Unimex, xí nghiệp còn cung cấp vải cho nhiều địa chỉ khác như Công ty Cung ứng tàu biển Quảng Ninh, để công ty này bán vải cho thủy thủ các tàu đến "ăn" than, thu về ngoại tệ mạnh; liên hệ với Công ty Gang thép Thái Nguyên để đổi vải lấy thép, rồi mang thép về Hải Hậu đổi lấy nông sản, giao cho Unimex xuất khẩu nông sản lấy ngoại tệ. Đến đây, sự liên kết đã mở rộng hơn trước nhiều, không chỉ là liên kết tay ba, mà hến tới liên kết tay bốn, tay năm...

Với những thành tựu như trên, nhà máy càng có thêm tín nhiệm với cấp trên và bắt đầu được chú ý đầu tư: Được nhập thêm những máy móc hiện đại, đắt và hiếm nhưng có hiệu quả kinh tế cao. Trong đó, có chiếc máy nhuộm cao áp của hãng Fuji, trị giá hơn 350.000 USD (đây là chiếc máy duy nhất ở miền Bắc vào thời kỳ này).

Có chiếc máy này, nhà máy có thể dệt được sợi petec, loại sợi mà ít nhà máy dám dệt, vì nếu không có máy nhuộm cao áp thì vải sẽ rất cứng. Tiếp đó, nhà máy còn mua thêm máy nhuộm con sợi, nhập thêm 60 máy dệt thoi kẹp hiện đại của Liên Xô.

Hàng tận dụng phế liệu vẫn “đắt như tôm tươi”

Đến giai đoạn này, nhà máy không chỉ mở rộng sản xuất theo hướng tăng sản lượng và chất lượng của các sản phẩm chính, mà còn tính đến việc tận dụng tất cả những phụ liệu và phế liệu để nâng cao hiệu quả kinh tế. 

Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.
Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.

Sản xuất chính càng phát triển, thì những phụ liệu và phế liệu càng nhiều, càng có thể bố trí được công ăn việc làm cho công nhân, nâng cao thu nhập của nhà máy và cải thiện đời sống của công nhân. Những phế liệu mà trước đây thường bỏ đi, nay được sử dụng để sản xuất một số hàng xuất khẩu và bán trên thị trường nội địa.

Để làm việc đó, nhà máy tổ chức thêm một phân xưởng phụ gọi là phân xưởng tổng hợp, với khoảng từ 3 đến 5 máy dệt và 3 đến 5 chục công nhân viên để sản xuất. Sở dĩ gọi đây là phân xưởng tổng hợp vì tuy là phân xưởng phụ nhưng nó ngày càng phát triển và đa dạng hóa các mặt hàng, tận dụng tất cả những nguồn lực từ lớn đến nhỏ; không bỏ thừa, bỏ phí một cái gì.

Thanh tra Nhà máy vì quà tặng “nhạy cảm” quần lụa đen

Có lần, nhân Đại hội Công nhân viên chức, nhà máy tặng cho mỗi người hai chiếc quần lụa làm quà. Việc đến tai Trung ương, cùng với những thông tin về kế hoạch đổi mới của nhà máy, Bộ Công nghiệp nhẹ đã có quyết định thanh tra nhà máy trong hai tháng.

Toàn bộ các mặt hoạt động của nhà máy đều có sổ sách phân minh. Ban lãnh đạo nhà máy rất bình tĩnh giúp đỡ đoàn thanh tra làm tốt nhiệm vụ. Để thể hiện sự tự tin của mình, Giám đốc còn chỉ thị cho các bộ phận phục vụ không được làm điều gì quá ân cần với đoàn thanh tra.

Nguyên Trưởng phòng Đời sống của Nhà máy kể: "Ông Ngọc (Giám đốc Nhà máy) biết là mình làm đúng "cây ngay không sợ chết đứng cho nên ông chỉ thị cho tôi chuẩn bị các bữa ăn cho đoàn thanh tra y như những bữa ăn công nhân viên chức trong nhà máy, không có đặc cách gì cả. Công nhân được một bữa ăn không mất tiền, thanh tra về cũng được ăn như thế. Mức ăn không hơn chút nào. Chúng tôi dọn bàn, công nhân năm người một bàn và hai món ăn thì thanh tra cũng năm người một bàn và hai món ăn, không hơn không kém.

Tôi thấy làm như thế cũng đúng vì trong hoàn cảnh như thế, cho đoàn thanh tra ăn nhiều hơn cán bộ công nhân viên thì họ lại nghĩ rằng chúng tôi muốn mua chuộc họ. Khi đoàn ra về, có kết luận xong rồi, thì xí nghiệp biếu mỗi thành viên trong đoàn một chiếc quần lụa. Việc đó đối với nhà máy không có gì quá đáng, vì ngày Tết ngày lễ một công nhân bình thường cũng được quà tặng như thế". Rất may, kết luận cuối cùng của đoàn thanh tra là: Nhà máy nên rút kinh nghiệm, nên xin ý kiến cấp trên trước khi quyết định những vấn đề "nhạy cảm" như làm quà bằng quần lụa đen, là thứ mà thời đó được coi là "của quý hiếm”.

Ban đầu, phân xưởng này được lập ra để tận dụng số tơ bị đứt, không thể dùng để sản xuất các chính phẩm. Nhà máy bố trí những con em công nhân và những người yếu sức nối lại những sợi tơ đứt và xe lại để dệt thành lụa và sa tanh.

Sản phẩm làm từ phế liệu như thế tất nhiên không thể đưa ra thị trường thế giới, nhưng đối với thị trường Việt Nam lúc đó thì vải đã là quý hiếm, huống chi là lụa và sa tanh, cho nên vẫn "đắt như tôm tươi". 

Xí nghiệp còn dùng loại "thứ phẩm" này đem về các địa phương đổi lấy lạc, vừng, gạo. Gạo thì cho công nhân ăn. Lạc và vừng thì chuyển giao cho bên ngoại thương xuất khẩu.

Có những thời kỳ, để phục vụ cho việc giao nông sản cho ngoại thương, xí nghiệp còn sử dụng con em công nhân về bóc lạc, chuyển lạc củ sang lạc nhân để đảm bảo giá hàng xuất cao hơn, thu thêm ngoại tệ về. 

Tiến tới một bước nữa, ngoài việc dệt lụa, xí nghiệp tổ chức một bộ phận sản xuất quần áo may sẵn cho phụ nữ và trẻ em để bán cho bách hóa và đem về nông thôn đổi nông sản.

Phân xưởng may này cũng là một trong những nơi tạo ra ngoại tệ và tạo điều kiện cải thiện đời sống của công nhân: gạo, thịt, rau, cá... đều từ đây mà ra.

Khi đã tiêu thụ hết các thứ phẩm, nhà máy sử dụng phân xưởng may này để may chăn ga gối đệm chính phẩm xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau đó, nhờ đã có quan hệ mua bán với Nhật nên xí nghiệp lại tìm được một khách hàng để may khăn lụa chính phẩm xuất sang Nhật.

Chất lượng khăn đã thỏa mãn khách hàng tới mức họ còn đưa thêm máy móc và thiết bị sang (loại máy hai kim, ba kim), đưa cả chỉ đặc chủng để may loại khăn này. Trong những trường hợp như thế thì phân xưởng phụ lại tạo ra sản phẩm chính cao cấp.

Thời hoàng kim hỗ trợ “ngược” cho Nhà nước

Đến lúc này thì các cơ sở "nông nghiệp hóa" của thời kỳ khủng hoảng và khó khăn đã mang một tính chất khác hẳn. Trước đây, do không có điều kiện để làm công nghiệp nên mới buộc phải đưa công nhân đi chăn bò, nuôi lợn, trồng rau, đóng gạch, nuôi cá....

Bây giờ, việc sản xuất chính của nhà máy phát triển mạnh, đã có đủ chỗ, đủ việc làm cho những công nhân có tay nghề, thì lại nảy sinh ra nhu cầu giải quyết công việc và đời sống cho gia đình công nhân, cho những người ốm yếu, những người về hưu, mất sức. 

Không thể thu hút những người đó vào phân xưởng tổng hợp, và ở đây cũng đòi hỏi kỹ thuật cao và có sức khỏe. Nhà máy không những không dẹp bỏ, mà còn tăng cường các cơ sở nông nghiệp:

Đầu tư thêm giống, thiết bị để cải thiện điều kiện lao động và chỗ ăn ở cho những anh em và gia đình lao động ở đây. Chính họ lại tạo ra sản phẩm như thịt lợn, thịt bò, cá tươi, gạo nếp, gạo tẻ, đậu, lạc, rau..., phục vụ trực tiếp cho những công nhân lành nghề của xí nghiệp. 

Bữa ăn giữa ca của công nhân được cải thiện rõ rệt. Thức ăn đầy đủ thực phẩm không còn ở mức vài gram như trước đây. Vào ngày Tết, mỗi công nhân được cấp không 2kg thịt, ngoài ra có đường, gạo, gà, vịt, cá...

Như vậy, phân xưởng phụ thì có quần áo, vải, lụa làm tặng phẩm cho công nhân trong những dịp lễ tết, thưởng cho những người làm việc có năng suất cao. Các cơ sở sản xuất nông nghiệp thì cung cấp thức ăn và tạo công ăn việc làm cho gia đình, giúp cho những người công nhân trong sản xuất chính yên tâm hơn.

Những năm 1982 - 1983 là những năm có rất nhiều khách đến tham quan và học tập nhà máy. Sức lan tỏa của những kinh nghiệm tại nhà máy ngày càng lớn lên. Nhà máy Dệt lụa Nam Định từ chỗ là một nhà máy cổ lỗ, ít được ai biết tới, dần dần đã nổi tiếng cả nước.

Có một điều thú vị nữa là nhà máy không đi xin ngoại tệ của Nhà nước, mà còn hỗ trợ ngoại tệ cho Nhà nước: Vì nhà máy đặt tại thành phố Nam Định nên thành phố Nam Định đã được xí nghiệp cho vay một khoản ngoại tệ đáng kể để thành lập Xí nghiệp May Sóng Hồng, nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho thành phố. 

Điều quan trọng nhất là nhà máy đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của công nhân, từ chỗ thiếu thốn từng hạt gạo, nước mắm đến miếng thịt, cái áo, cái quần, nhà máy trở thành một trong những nơi mà người công nhân có thu nhập khá nhất, có đời sống tốt nhất vào lúc.

Lương công nhân tương đương giám đốc

Về gạo ăn, từ 1981, xí nghiệp đã cử người vào miền Nam mua gạo (về nguyên tắc vẫn phải thông qua Công ty Lương thực của thành phố). Ngoài tiêu chuẩn được mua của Nhà nước, nhà máy đã lo cho công nhân hai tháng một lần, mỗi lần một người được mua 20kg gạo. Như vậy, công nhân có thể hoàn toàn yên tâm về gạo ăn. 

Về thực phẩm, cũng do liên kết với các địa phương, trao đổi hiện vật và có cơ sở sản xuất nên xí nghiệp đã đảm bảo hầu như tất cả các khoản thịt, cá, rau, đậu, đường bột ngọt... cho bữa ăn của công nhân.

Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.

Tổ sản xuất vải may dù phục vụ không quân thời kháng chiến chống Mỹ.

Bữa ăn giữa ca không mất tiền. Ăn sáng là một bát phở hoặc một bát bún. Ốm đau có bồi dưỡng đường, sữa. Ngày Tết, tiêu chuẩn của mỗi công nhân được nhà máy lo cho là 20kg gạo tẻ, 5kg gạo nếp, 2kg đỗ xanh, 2kg thịt, 1 lít nước mắm, 2kg đường, một gói mì chính 100g.

Những ngày lễ trong năm, nhà máy đều có quà cho công nhân. Ngày Quốc tế Thiếu nhi mùng Một tháng Sáu thì tất cả những cháu thiếu nhi con em công nhân đều được một bộ quần áo mới. Ngày 8/3, mỗi nữ công nhân được tặng một chiếc quần lụa. Những ngày Quốc tế Lao động 1/5, Quốc khánh 2/9, mỗi công nhân được 2kg cá, 1kg thịt, 10kg gạo, 2kg đường, một gói mì chính. 

Về những mặt hàng công nghệ phẩm khác, nhà máy cũng dùng liên kết để đổi về và dùng làm phần thưởng cho công nhân, như quạt điện, xe đạp, đài...

Cũng nhờ sản xuất phát triển, cải tiến tổ chức quản lý lao động, áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm, nên tiền lương thực tế của công nhân tăng lên đáng kể. Trước đây, lương công nhân làm 3 ca cao nhất được 55 đồng, từ 1982 lên tới 90 đồng, ngang với lương cán bộ lãnh đạo. Không ít công nhân có năng suất cao đạt mức lương tương đương mức của Giám đốc.

Nhà máy còn xây dựng tới 3 nhà trẻ cho con em cán bộ công nhân viên. Số nhà trẻ này được phân bố hợp lý để cho các cháu không phải đi quá xa. Nhà máy tiếp nhận tới 45 cô giữ trẻ, phần lớn cũng là con em công nhân. Như thế vừa giúp thêm cho con em công nhân đến tuổi lao động có việc làm, những cháu nhỏ thì được trông coi chu đáo, bố mẹ yên tâm lao động.

Để đảm bảo sức khỏe cho công nhân, khi ốm đau không phải đi bệnh viện của thành phố, nhà máy xây dựng một bệnh xá với 20 giường bệnh, có những phòng khám đa khoa, có bác sỹ, y sỹ, y tá phục vụ chu đáo. Việc khám, chữa bệnh và ăn ở tại đây hoàn toàn không mất tiền.

Công nhân che mưa cho Nhà máy, “mặc kệ” nhà mình bay nóc

Nguyên quản đốc của Nhà máy kể, những năm 1981 – 1988, đời sống công nhân trong thời kỳ này là khá cao. Ngoài tiền ăn ra, công nhân còn thừa tiền để mua vàng dự trữ. 

Cũng vì gắn quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động với lợi ích của nhà máy, nên tinh thần lao động của mọi người khác hẳn trước. Kể từ Giám đốc, quản đốc, tới công nhân, đều hết lòng với công việc của mình. Giám đốc thì tìm mọi cách đi ký kết các hợp đồng liên doanh liên kết, bán được nhiều sản phẩm. Công nhân hăng say lao động, coi việc của xí nghiệp còn hơn cả việc nhà mình.

Nguyên quản đốc Nhà máy kể lại một câu chuyện nhỏ, nhưng lại phản ánh một cách sắc nét mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể: "Có lần tôi và một người phó quản đốc khác đang ở nhà thì bỗng thấy có bão về. Chúng tôi đã vội bỏ nhà để vào cứu nhà máy. Gió to quá tốc hết mái phân xưởng. Máy móc thì không thể bị nước mưa.

Hai chúng tôi đành chịu ướt để căng bạt che mưa cho máy, mỗi người cầm hai góc đầu bạt cho đến khi mưa tạnh. Sau khi cứu máy về đến nhà, thì ôi thôi, nóc nhà mình đã bay đi mất rồi. Tôi chui nào gầm giường ngủ lấy sức để sáng hôm sau còn đến nhà máy sớm...".

Tin cùng chuyên mục

Tổng cục Thuế quán triệt công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy

Tổng cục Thuế quán triệt công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy

(PLVN) -Tổng cục Thuế yêu cầu, cùng với việc quyết tâm thực hiện sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, các đơn vị cần tăng cường công tác quản lý nội ngành, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ và trong công tác quản lý thuế để phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao, đặc biệt là nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước.

Đọc thêm

Bộ NN&PTNT: Hỗ trợ tích cực phòng chống dịch bệnh và xử lý môi trường

Bộ NN&PTNT: Hỗ trợ tích cực phòng chống dịch bệnh và xử lý môi trường
(PLVN) - Ngày 10/12, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế Lê Đức Luận cùng bà Aler Grubbs, Giám đốc quốc gia Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và bà Martina Stepheny, Giám đốc cấp cao tổ chức FOUR PAWS International (FPI) đồng chủ trì Diễn đàn cấp cao năm 2024 về Một sức khỏe phòng chống dịch bệnh từ động vật sang người.

Tận dụng các FTA giúp ngân hàng tăng doanh thu

Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương).
(PLVN) - Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết, cơ hội từ các FTA giúp ngân hàng tăng được số lượng khách hàng, tăng doanh thu. Bởi số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, tham gia vào các FTA, nếu họ tận dụng hiệu quả thì đây là nguồn khách hàng tiềm năng cho hệ thống ngân hàng. Như vậy, trước mắt các cán bộ ngân hàng phải hiểu rõ, hiểu sâu để tận dụng, thực thi các FTA.

Cơ bản đã đủ pháp lý để triển khai điện hạt nhân

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân thông tin về dự án điện hạt nhân tại Ninh Thuận trong buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 11/2024. (Ảnh: VGP)
(PLVN) -  Tái khởi động dự án điện hạt nhân đang nhận được sự đồng thuận của toàn xã hội. Trong đó, các chuyên gia về điện cho rằng, phát triển nguồn điện hạt nhân không chỉ giúp đa dạng nguồn cung, mà còn bảo đảm an ninh năng lượng và chuyển dịch năng lượng xanh.

FTA Index - công cụ 'hỗ trợ' Quốc hội giám sát, chỉ đạo công tác thực thi FTA

Nhiệm vụ quan trọng của Vụ Chính sách thương mại đa biên là hoàn thành báo cáo kết quả xây dựng Bộ Chỉ số và trình lên Thủ tướng Chính phủ.
(PLVN) - Thông qua FTA Index, cơ quan, doanh nghiệp địa phương có thể soi chiếu được việc thực hiện kế hoạch hành động của Chính phủ gắn với kế hoạch hành động của các tỉnh, thành phố xây dựng FTA Index để xác định được những điểm đã làm được và những điểm cần phải thúc đẩy hơn nữa, từ đó tìm ra những giải pháp, chính sách cụ thể hơn cho các doanh nghiệp trên địa bàn của mình tận dụng được FTA.

Địa chỉ tin cậy giúp địa phương và doanh nghiệp tối ưu hóa lợi ích từ FTA

Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương).
(PLVN) - Cổng thông tin điện tử Hiệp định Thương mại tự do của Việt Nam (Vietnam FTA Portal, gọi tắt là Cổng FTAP tại địa chỉ fta.gov.vn) là một công cụ tra cứu các cam kết về Hiệp định thương mại tự do (FTA) và các thông tin liên quan một cách thông minh, tiên tiến, có ý nghĩa rất lớn trong việc giúp địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và người dân tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA .

Khởi động dự án nhà máy sản xuất ô tô điện VinFast Hà Tĩnh

Khởi động dự án nhà máy sản xuất ô tô điện VinFast Hà Tĩnh
(PLVN) - Dự án xây dựng nhà máy sản xuất ô tô điện VinFast tại KKT Vũng Áng (Hà Tĩnh) có công suất thiết kế 400.000 xe/năm với tổng mức đầu tư xây dựng 7.300 tỷ đồng. Dự kiến, tháng 6/2026, dự án hoàn thành tiến độ xây dựng cơ bản và đưa vào khai thác vận hành.

Thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cây ăn quả các tỉnh phía Bắc

Toàn cảnh diễn đàn.
(PLVN) - Chiều 6/12, Cục Trồng trọt, Hội Làm vườn Việt Nam, Sở NN-PTNT tỉnh Hòa Bình và các đơn vị liên quan phối hợp Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức Diễn đàn “Nâng cao chất lượng, chuỗi giá trị và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cây ăn quả các tỉnh phía Bắc”.

Chống hàng lậu, hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ: Hải quan chủ động giải pháp đấu tranh, ngăn chặn

Ông Vũ Hoài Linh trao đổi về giải pháp ngăn chặn hàng vi phạm sở hữu trí tuệ. (Ảnh: TD)
(PLVN) - Tình hình hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ thời gian qua tiềm ẩn diễn biến phức tạp, tinh vi, khó lường. Theo số liệu của Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia, trong 9 tháng năm 2024, các lực lượng đã phát hiện, bắt giữ và xử lý trên 39.000 vụ vi phạm, giảm 32,7% so với cùng kỳ năm 2023.