Người dân tộc thiểu số ở đâu được trợ giúp pháp lý?
Những năm qua, mặc dù Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư, ưu tiên cho người DTTS nhưng nhìn chung đời sống của họ vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vùng DTTS và vùng có điệu kiện KT-XH đặc biệt khó khăn. Vì vậy, bên cạnh các chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế… còn có chính sách về TGPL cho người DTTS.
Theo quy định tại Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc thì DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở nước ta hiện nay, dân tộc đa số là dân tộc Kinh, 53 dân tộc còn lại đều là DTTS.
Trước đây, theo Luật TGPL năm 2006 người DTTS “thường trú” (có Sổ hộ khẩu) ở vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn mới được TGPL, thì nay theo Luật TGPL năm 2017 người DTTS “cư trú” (thường trú, tạm trú) ở vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn đều được TGPL. Như vậy, Luật đã có sự kế thừa và phát triển, nhằm tạo điều kiện hơn để người DTTS được hưởng chính sách TGPL.
Ngoài ra, người DTTS nếu không cư trú ở những vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn thì vẫn được TGPL nếu họ là người có công với cách mạng, người nghèo, người thuộc hộ cận nghèo bị buộc tội, trẻ em, người dưới 18 tuổi bị buộc tội, người có khó khăn về tài chính như: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV (Điều 7 Luật TGPL năm 2017).
Trợ giúp pháp lý đồng bào dân tộc thiểu số bao gồm những hoạt động nào?
Cụ thể hơn, Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Chính phủ quy định chính sách TGPL đồng bào DTTS tại vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn bằng các hoạt động hỗ trợ như: (1) Hỗ trợ thực hiện vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức
tạp hoặc điển hình; (2) Hỗ trợ học phí cho viên chức của Trung tâm TGPL Nhà nước tại các địa phương có huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn đủ điều kiện tham gia khóa đào tạo nghề luật sư; tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL; (3) Truyền thông về TGPL bao gồm: (a) Thiết lập đường dây nóng về TGPL; (b) Xây dựng, phát chuyên trang, chuyên mục về TGPL bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc trên Đài Truyền thanh xã; (c) Tổ chức các đợt truyền thông về TGPL ở cơ sở.
Cũng như diện người được TGPL khác, người DTTS được Trung tâm TGPL nhà nước của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện TGPL khi người được TGPL đang cư trú tại địa phương hoặc vụ việc TGPL xảy ra tại địa phương hoặc vụ việc TGPL do cơ quan có thẩm quyền về TGPL ở Trung ương yêu cầu. Hình thức TGPL bao gồm: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng.
Thù lao trợ giúp pháp lý do Nhà nước chi trả
TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL trong vụ việc TGPL theo quy định của Luật TGPL, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Dịch vụ pháp lý được hiểu là một dịch vụ công của Nhà nước, do Nhà nước đảm bảo thực hiện. Người được TGPL (trong đó có đối tượng là người DTTS) không phải trả tiền thù lao cho người thực hiện TGPL (Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư ký hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước), mà tiền thù lao này do Nhà nước chi trả.
Trong quá trình người DTTS được Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý bằng các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng (bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính), nếu người DTTS không biết tiếng Việt hoặc là người câm, người điếc thì được TGPL cử người phiên dịch và toàn bộ chi phí do Nhà nước chi trả.
Khi giải quyết vụ việc liên quan đến công dân, nếu công dân thuộc diện người được TGPL thì các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL; các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) có trách nhiệm tạo điều kiện cho người được TGPL hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho Trợ giúp viên pháp lý/Luật sư tham gia tố tụng để bào chữa/bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL nói chung, người được TGPL là người DTTS nói riêng (Điều 41, 42 Luật TGPL năm 2017).