Đất “trăm nghề” và những gian nan
Ngay từ khi được chọn là nơi định đô, Thăng Long đã có nhiều nghề thủ công như dệt vải, làm gạch sứ, đúc tượng đồng, nấu rượu tăm, chạm vàng bạc rồi cả những làng nghề chuyên doanh như trồng dâu nuôi tằm, trồng hoa cây cảnh. Tìm hiểu về làng nghề, phố nghề đất lề Kẻ Chợ, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã chỉ rõ, bách nghệ kinh đô đa số có gốc gác tứ trấn Đông, Nam, Đoài, Bắc nhưng đã tinh xảo lên trong thị trường lớn nhất và cũng khó nhất là Thăng Long - Hà Nội.
Nghề thủ công truyền thống Thăng Long - Hà Nội được hình thành chủ yếu từ ba nguồn. Một là những nghề có sẵn ở các làng mạc thôn xóm trước khi Thăng Long trở thành kinh đô của cả nước. Hai là do những biến cố của lịch sử, thợ thủ công ở các nơi khác kéo về ngoại ô, tìm chỗ thuận tiện lập nên làng xóm để làm nghề (gốm Bát Tràng, đúc đồng Ngũ Xá…). Ba là thợ thủ công ở các nơi kéo về nội đô làm ăn, mang theo những đặc sắc của quê hương mình, vừa sản xuất vừa bán ngay sản phẩm tại phố phường. Còn đó phố Tô Tịch là nơi sản xuất và bán sản phẩm của làng tiện Nhị Khê. Phố Hàng Bạc là nơi hành nghề, trao đổi buôn bán của dân chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), Châu Khê (Hưng Yên), Định Công (Thanh Trì, Hà Nội)…
Chưa kể, từ năm 2008 khi Hà Nội sáp nhập với Hà Tây, nơi được ví von là “đất trăm nghề” thì kho báu di sản làng nghề truyền thống của Hà Nội càng trở nên phong phú hơn. Theo thống kê, Hà Nội hiện có 1.350 làng nghề lớn, nhỏ. Các sản phẩm của làng nghề đa dạng chủng loại, mẫu mã, một số có thể cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
Nhiều làng nghề nổi tiếng thu hút sự quan tâm của khách du lịch như: Lụa Vạn Phúc (Hà Đông), gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm), mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), thêu Quất Động, sơn mài Hạ Thái (Thường Tín), khảm trai Chuôn Ngọ (Phú Xuyên)… Đặc biệt, các làng nghề đều có sự tăng trưởng cả về doanh thu, giá trị sản xuất và giá trị xuất khẩu qua các năm. Trong đó có khoảng 100 làng nghề đạt doanh thu từ 10 đến 20 tỷ đồng/năm, gần 70 làng nghề đạt từ 20 đến 50 tỷ đồng/năm và khoảng 20 làng nghề đạt trên 50 tỷ đồng/năm, đóng góp đáng kể vào ngân sách địa phương.
Vậy hướng đi nào cho ngành thủ công mỹ nghệ có thể bắt nhịp và tạo đà cho công nghiệp văn hóa của Hà Nội? Đó là một bài toán mà giới nghề còn nhiều trăn trở. Thực tế cho thấy, nghề thủ công mỹ nghệ của Hà Nội đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Theo số liệu của Sở Công Thương Hà Nội, trong số 1.350 làng nghề Thủ đô có 313 làng nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận, 207 làng có nghề đang phát triển, 543 làng có nghề đã bị mai một và 287 làng có nghề có dấu hiệu mai một.
Nguyên nhân cản trở sự phát triển của nghề thủ công mỹ nghệ đó là do thiếu chiến lược, kế hoạch để thúc đẩy, hỗ trợ và phát triển làng nghề. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ mới trong sản xuất còn hạn chế, khả năng tiếp cận thị trường còn thụ động, chất lượng nguồn lao động tại làng nghề chưa cao, sản phẩm làng nghề thiếu sự độc đáo, chưa thể hiện rõ bản sắc văn hóa… Đồng thời, mối liên kết giữa nghệ nhân với hộ kinh doanh, doanh nghiệp lữ hành, giữa các làng nghề với nhau cũng chưa thực sự gắn kết.
Mỗi làng nghề cần là một địa chỉ văn hóa
Để làng các nghề phát triển bền vững, giới chuyên môn cho rằng Hà Nội cần chú ý công tác quy hoạch, bảo tồn làng nghề, có những chính sách đặc thù hỗ trợ cơ sở sản xuất làng nghề về vốn, mặt bằng sản xuất; hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ sản xuất, xử lý môi trường; chú trọng đào tạo nghề, truyền nghề, cấy nghề… Đặc biệt, cần gắn sản xuất với giữ gìn bản sắc văn hóa, lịch sử phát triển làng nghề, để mỗi làng nghề là một địa chỉ du lịch văn hóa...
Làng nghề mây tre đan Phú Vinh (Hà Nội). (Ảnh ST) |
Theo họa sĩ Vũ Hy Thiều, chuyên gia ngành thủ công mỹ nghệ, để thủ công mỹ nghệ phát triển ở tầm cao mới, trở thành ngành công nghiệp văn hóa tạo đà cho sự phát triển của Hà Nội thì cần phải nâng cao chất lượng thẩm mỹ các sản phẩm của làng nghề chứ không đơn thuần chỉ tập trung đầu tư vào công nghệ, kỹ thuật. Họa sỹ Thiên Hy cho rằng, “muốn nâng cao chất lượng thẩm mỹ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì phải đầu tư cho thiết kế đúng mức và đúng cách. Thêm nữa, cần phải nâng cao trình độ thẩm mỹ cho chính các nghệ nhân làng nghề”.
Tại huyện Phú Xuyên, các làng nghề đã cho ra nhiều mẫu mã đa dạng, mang đậm nét văn hóa của mỗi làng và đã tạo dựng được thị trường rộng lớn ở hầu hết tỉnh, thành phố trong nước. Một số sản phẩm mây giang, đan cỏ tế... được xuất khẩu sang Mỹ, Nga, Ba Lan, Nhật Bản, Trung Quốc... Sơn mài, khảm trai được xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Nga, Ba Lan...
Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Văn Tĩnh, làng nghề mây tre đan Phú Vinh, huyện Chương Mỹ tự hào khi mây tre đan Phú Vinh đã vươn tới tầm quốc tế với nhiều sản phẩm xuất khẩu chất lượng. Ông bảo, để có được “tiếng vang” đó, những nghệ nhân, thợ giỏi trong làng dồn nhiều tâm sức cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm. Dẫu vậy, ông vẫn canh cánh đó là làm sao Phú Vinh sớm có sản phẩm phục vụ du lịch cộng đồng ngay tại làng nghề. Chẳng hạn có phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm làng nghề, kết nối nhiều tour du lịch đưa khách đến tham quan, trải nghiệm, mua sắm…
Ở góc độ chủ thể văn hóa, nghệ nhân tò he Đặng Văn Hậu (38 tuổi, Phú Xuyên, Hà Nội) khẳng định rằng nghề truyền thống của địa phương đang dần mai một. “Nghề nặn tò he phát đạt nhất vào dịp lễ, Tết, hội hè. Những thời điểm khác trong năm, vì ít việc nên người nghệ nhân phải xoay sang nghề khác để đảm bảo cuộc sống. Dần dần, khi có công việc ổn định, họ không còn muốn trở lại với nghề truyền thống nữa”, nghệ nhân Đặng Văn Hậu cho biết.
Tuy nhiên, với khát vọng đem đến làn gió mới cho tò he Việt, nghệ nhân Hậu đã nỗ lực tìm tòi cải tiến chất lượng bột tạo độ bền cho sản phẩm. Đồng thời đa dạng mẫu mã, tìm kiếm thị trường cho tò he. Những ngày COVID-19 diễn biến phức tạp, trong ngôi nhà nhỏ ở làng Xuân La, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, nghệ nhân Hậu vẫn miệt mài với con giống, bột màu. Những đơn hàng online từ muôn ngả vẫn ùa về mang theo niềm hi vọng của nghệ nhân trẻ tuổi, nghề xưa phát triển hơn xưa.
Nghệ nhân Đặng Văn Hậu cho hay, anh đã nghiên cứu, thử nghiệm và pha trộn thành công chất liệu có độ bền cao, màu sắc tươi sáng. Những con giống bột không chỉ được tạo hình kỳ công mà còn có thể “kể” nhiều câu chuyện về văn hóa dân gian Việt Nam, trở thành quà lưu niệm cho bạn bè quốc tế. Anh đang hợp tác với Hội Di sản Văn hóa Việt Nam để phát triển sản phẩm tò he thành quà lưu niệm có độ bền lên đến vài chục năm. “Tôi được trợ giúp trong khâu thiết kế bao bì, thuyết minh sản phẩm, marketing, bán hàng… để có thể tập trung vào chuyên môn sáng tạo” - nghệ nhân chia sẻ.
Phó Chủ tịch UBND huyện Thường Tín Bùi Công Thản cho biết, sản phẩm của các làng nghề truyền thống Thường Tín có sự kết hợp giữa văn hóa và trình độ kỹ thuật của người làm nghề, kết tinh giá trị thẩm mỹ, bàn tay và khối óc tài hoa của các nghệ nhân, thợ lành nghề qua nhiều thế hệ. Chúng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế cho người dân, mà còn phản ánh sinh động lối sống, phong tục, tập quán và ước mơ, khát vọng của người Thượng Phúc, người Thường Tín từ xưa đến nay. Do đó, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như thêu phục chế trang phục cung đình làng Đông Cứu, sơn mài Hạ Thái, sinh vật cảnh Hồng Vân, lược sừng Thụy Ứng, đã khơi dậy và lan tỏa sức sáng tạo, góp phần hình thành thương hiệu riêng, thực sự là nguồn tài nguyên văn hóa đặc sắc, là thế mạnh để địa phương phát triển du lịch.
Do đó, cần khuyến khích sự tham gia và kết nối của các làng nghề - phố nghề, giữa các nghệ nhân và thợ thủ công, giữa các tổ chức, các doanh nghiệp làm việc trong lĩnh vực sáng tạo để nâng cao chất lượng sản phẩm thủ công truyền thống. Xây dựng những điểm giới thiệu, trưng bày sản phẩm thủ công mỹ nghệ, lưu niệm, quà tặng của các làng nghề - phố nghề Hà Nội nhằm quảng bá tinh hoa làng nghề và tăng tính trải nghiệm cho du khách khi đến với Hà Nội…