Báu vật giữa rừng già
Đoạn đường từ trung tâm TP Buôn Ma Thuột (tỉnh lỵ của Đắk Lắk) đến huyện Ea Súp càng thêm hun hút bởi con đường trải nhựa, rộng thênh thang nhưng vắng người qua lại. Vào thời điểm cuối mùa khô, đầu mùa mưa này, lá rừng rụng xuống càng tô sắc thêm cảnh vật đẹp như tranh vẽ ở hai bên đường.
Đến trung tâm huyện, phải chạy thêm gần 30 cây số trên đoạn đường đầy mấp mô sỏi đá, bụi tung mù mịt mới đến được nơi cần đến. Nhưng sự huyền bí và những câu chuyện xoay quanh ngọn tháp mang tên “Thần vĩ đại” đã xóa tan sự mệt mỏi trong suốt cuộc hành trình.
Con đường trên hành trình tới tháp Yang Prông |
Khi rừng già Ea Súp hiện ra, chúng tôi không khỏi bị choáng ngợp bởi những cây cổ thụ cao to sừng sững, tán xòe rộng như những bàn tay khổng lồ che tối cả mặt đất. Dưới tán cây rừng, tưởng chừng như không có lối vào ấy, bất ngờ lộ ra một con đường âm u kéo dài đến tận công trình cổ kính. Tháp Yang Prông hiện ra trước mắt chúng tôi với vẻ đẹp hút hồn và đầy mê hoặc.
Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa thể lý giải được một cách chính xác vì sao trên mảnh đất Tây Nguyên lại tồn tại một tháp Chàm cổ kính, huyền bí, độc đáo giữa rừng già như vậy.
Từ năm 1990, qua một số công trình nghiên cứu, các nhà khoa học trong và ngoài nước đều đi đến kết luận: Tháp Yang Prông được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII, dưới thời vua Chăm Pa lúc đó là Sinhavarman III (chồng của công chúa Huyền Trân). Nó được phát hiện vào khoảng những năm 1904- 1911 bởi một nhà dân tộc học người Pháp.
Theo quan niệm của người Chăm, tháp Yang Prông thờ vị thần vĩ đại Shiva, hình dạng tháp là biểu tượng minh chứng cho việc cầu mong sự nảy nở của giống nòi và ấm no, hạnh phúc.
Từ xa xưa, nơi đây là một vùng đất hoang vu, vắng vẻ, không một bóng người sinh sống. Cho đến năm 1977, Lâm trường Rừng Xanh được thành lập, lúc này công nhân từ các nơi đến làm việc, kết hợp với nhiều cuộc di cư của người miền xuôi đến đã tạo cho mảnh đất nơi đây một diện mạo đầy mới mẻ.
Công trình kiến trúc của ngôi tháp Chăm duy nhất trên Tây Nguyên hùng vĩ này cao khoảng 9m, đáy hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 5m. Chỉ có một cửa ra vào duy nhất nằm ở hướng Đông, ba mặt tháp còn lại đều có cửa giả. Tất cả khối kiến trúc ấy được xây dựng bằng gạch nung đỏ, trên nền cao bằng đá xanh.
Cận cảnh kiến trúc ngọn tháp Yang Prông |
Cấu trúc tháp là hình vuông, phần đỉnh tháp có hình nhọn như củ hành, trông rất đặc biệt. Phần tiền sảnh phía Đông rộng khoảng 1,6m. Tương truyền rằng trong tháp có một bàn đá, trên đó là một pho tượng đá có hình thù tương tự như chính tháp Yang Prông. Tuy nhiên, tượng đá cùng với bàn đá này đã mất tích từ lâu một cách bí ẩn.
Một giả thiết được đặt ra, trong những cuộc xâm chiếm càn quét của bọn thực dân đế quốc, chúng đã tịch thu tất cả những pho tượng quý, trong đó có pho tượng nằm trong tháp Yang Prông rồi đem về châu Âu qua đường biển. Tính đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có bất cứ một tung tích nào về pho tượng quý cùng bàn đá kỳ lạ trên.
Truyền thuyết về pho tượng thần bí
Những nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cư dân bản địa quanh vùng tháp, phần đông là người Gia rai, sau đó là Ê đê và một số ít là M'nông. Họ đều gọi tháp bằng cụm từ Yang Prông tức “Thần Lớn” (tiếng Ê Đê: Yang nghĩa là thần; Prông nghĩa là Lớn).
Trong hàm nghĩa này, có lẽ ám chỉ nơi đây thờ vị thần tối cao. Người Chăm cũng thường thờ thần Shiva trong các tháp của mình và cũng coi đó là vị thần tối cao. Theo Ấn Độ giáo, Shiva hợp với Brahma và Vishnu trong bộ tam thần tối cao, tượng trưng cho quyền lực vô biên.
Cũng có giả thuyết cho rằng, tháp được xây dựng bởi nhà vua Chăm Pa lúc đó là Jaya Sinhavarman III (tức Chế Mân, chồng của công chúa Huyền Trân) và cụm từ Thần Lớn gắn với tên tuổi của ông. Tuy nhiên, người dân bản địa sau này lại không hề biết đến tên các vị thần trong tín ngưỡng của người Chăm Pa và tên tuổi của vua Jaya Sinhavarman III. Họ chỉ biết đây là thần lớn, linh thiêng, cần được thờ phụng. Cũng vì thế mà ít nhiều có sự sai lạc trong cách hiểu về vị thần được thờ ở tháp.
Không biết tự bao giờ xoay quanh ngôi tháp thần bí này đã dựng nên truyền thuyết về vị thần tối cao của người Chăm Pa như sau: Có hai vợ chồng nhà kia. Người vợ đến kỳ sinh nở. Người chồng chạy đi tìm bà đỡ. Khi bà đỡ bắt tay vào việc thì bỗng nhiên trên không trung xuất hiện một cánh diều. Tiếng sáo diều réo rắt, véo von làm chim rừng thôi hót, cây thôi xào xạc. Bà đỡ quên bẵng công việc đang làm để nghe tiếng sáo diều. Vì thế khi em bé không chào đời thì người mẹ trẻ cũng chết.
Người chồng cũng mải nghe tiếng sáo, giật mình nhìn lại, thấy cảnh tượng hãi hùng, liền cầm gươm chém đứt đầu bà đỡ. Ba người đều chết oan, hóa đá. Dân trong vùng gọi hai mẹ con sản phụ là Yang Prong. Câu chuyên xảy ra ở chỗ tháp Chăm bây giờ. Dân trong vùng đều đến cúng Yang Prong, rượu cúng chảy thành suối. Ở xã Ea Rok bây giờ vẫn còn một cái ao, gọi là ao đổ bã rượu.
Nhiều người suy đoán rằng, rất có thể truyền thuyết trên gắn với một ngôi đền thờ khác gần tháp nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn và chuyển thành lời giải thích về sự sinh tồn của tháp Yang Prông sau này. Năm tháng trôi đi, khi chủ nhân văn hóa của tháp Chăm không còn nữa, tín ngưỡng bản địa đã xâm nhập vào di tích này như là một hiện tượng tự nhiên và tất yếu.
Có một điểm chung giữa người Chăm khi xưa và người bản địa sau này là tính thiêng của tháp (tức tính thiêng của vị thần, linh hồn của tháp). Vì sự linh thiêng, vị thần trong tháp được tôn sùng. Đây là một hằng số không đổi giữa các tín ngưỡng khác nhau (không kể tín ngưỡng đa thần hay nhất thần).
Trong trường hợp này, sự linh thiêng chỉ là biểu hiện bên ngoài. Cái gốc của sự linh thiêng (vị thần chủ được thờ) đã bị biến đổi bởi người dân bản địa. Với tín ngưỡng đa thần, người dân bản địa đã sáng tạo ra một nội dung mới (nguồn gốc vị thần) trong một hình thức cũ. Đó là sự thay thế tự nhiên, hậu quả của sự biến mất chủ nhân văn hóa và tín ngưỡng của họ.
Giả sử người Chăm vẫn còn sống ở khu vực gần tháp, những sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của họ vẫn được duy trì trong tháp thì tình hình trên sẽ không xảy ra. Vì vậy ở đây không có sự xung đột văn hóa, không có sự loại trừ văn hóa này đối với văn hóa khác bởi cư dân bản địa. Dường như đây là một sự bù đắp cho những thiếu hụt văn hóa diễn ra một cách tự phát trong đời sống thường nhật.
Hiện tượng trên cũng chứng tỏ sự tôn sùng của người dân bản địa đối với tháp Chăm. Họ không muốn phá hủy nó mà muốn duy trì sức sống lâu bền của nó bằng cách thổi vào đó một sự linh thiêng có nguồn gốc bản địa. Sự chiếm lĩnh thiết chế này thể hiện tính tích cực của người dân địa phương trong quá trình giao lưu văn hóa với Chăm Pa. Sự xâm thực văn hóa đối với tháp Yang Prông không chỉ dừng lại ở sự thờ cúng của người dân bản địa mà còn tiếp tục diễn ra bởi người Kinh di cư từ nhiều vùng miền của đất nước đến các khu định cư gần tháp.
Năm 1977, lâm trường Rừng Xanh được thành lập, nhiều công nhân từ các vùng xuôi lên lập nghiệp, đến nay, con cháu họ đã mấy đời trở thành cư dân ở đây. Những cuộc di cư lẻ tẻ của người Kinh đến nơi đây cũng đã diễn ra trong suốt gần 40 năm qua.
Bởi vậy, đến tháp chúng tôi đã chứng kiến được sự thành tâm cầu nguyện của nhiều người trước tháp Yang Prông. Nhiều bát hương được đặt tùy tiện ở cạnh tháp và trên những tảng đá trước cửa tháp. Theo một số tài liệu thì chỉ có người Kinh mới thắp hương khi lễ bái, điều này không giống với các cư dân bản địa. Người Kinh cũng nhận thức được sự linh thiêng của thần chủ trong tháp. Họ đến cầu nguyện như đối với các đền, miếu dưới xuôi để cầu tài- lộc- duyên cho mình hoặc cầu sinh nở, bình an, sức khỏe, thậm chí danh vọng cho bản thân và gia đình mình.
Chai lọ, bát hương trước cửa tháp |
Bí ẩn sự kết dính của kiến trúc
Một câu hỏi lớn đặt ra ở đây là: Tại sao trên mảnh đất Tây Nguyên vốn không có người Chăm sinh sống lại xuất hiện công trình kiến trúc văn hóa của bộ tộc này? Ai cũng biết, đặc điểm của người Kinh là mang tính cởi mở về văn hóa. Người Kinh không sáng tạo ra một truyền thuyết mới nhằm giải thích nguồn gốc vị thần trong tháp Yang Prông theo quan niệm của mình có thể vì họ đến định cư muộn, thời gian sinh sống chưa đủ để tạo nên bề dày của một lớp văn hóa mới.
Trao đổi với chúng tôi, ông Lê Văn Hoàn, Phó chủ tịch xã Ea Rốk chia sẻ: “Về vấn đề lý do sự tồn tại của chiếc tháp, có người cho rằng, cách đây khoảng 700 năm, Tây Nguyên đã từng có sự tồn tại của người Chăm, họ đến đây và xây dựng nên công trình tháp Yang Prông. Tuy nhiên, sau đó có thể do sự đấu tranh của người bản địa; hoặc do môi trường và khí hậu nơi cao nguyên quá khắc nghiệt không phù hợp nên họ đã cùng nhau trở về quê hương”.
Một giả thuyết khác lại cho rằng: Trong thời chiến, người Chăm trên đường di cư từ nơi khác trở về quê hương, khi đi ngang qua vùng đất Tây Nguyên họ đã dừng chân và xây dựng nên công trình kiến trúc Yang Prông, sau đó tiếp tục lên đường về với quê hương.
Trên đây là hai giả thuyết lý giải sự có mặt của ngọn tháp. “Cho dù ở khía cạnh nào, chúng ta thấy ngọn tháp này đều có ý nghĩa chứng minh sự có mặt của con người cũng như nền văn hóa Chăm Pa trên mảnh đất Tây Nguyên này”, ông Hoàn chia sẻ.
Nhiều người cho hay, sự kỳ bí của tháp thể hiện cả trong mặt kiến trúc và vấn đề tâm linh. Những viên gạch nung đỏ kết hợp với nhau tạo thành một hình khối bền vững theo năm tháng, vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên. Nhưng không ai có thể biết được cụ thể nó tạo nên như thế nào khi không hề có mạch vữa.
Có nhiều giả thuyết lý giải về kiến trúc bí ẩn này. Ví như, người Chăm xưa dùng nhựa cây để tạo sự kết dính giữa các viên gạch đó;
Hay một cách lý giải khác là người Chăm cổ dùng gạch non để xây dựng thành hình khối của chiếc tháp sau đó họ dùng lá cây đốt tạo sự bền vững. Hoặc là họ đã dùng sáp ong và phân trâu. Tất cả những nhận định đó chỉ là phán đoán của những người ham mê kiến trúc cổ, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu hay văn bản nào trả lời một cách chính xác và rõ ràng về vấn đề này.
Về mặt tâm linh, việc xây dựng những chiếc tháp là biểu hiện cho sự thành kính, tôn thờ các đấng thần linh tối cao. Vào những ngày lễ người Chăm chỉ đốt trầm hương cho thơm chứ không có thói quen thắp nhang như một số dân tộc khác.
Do đó, theo kiến trúc của họ không hề có những bát nhang đặt la liệt như hiện trạng chúng ta thấy trong khuôn viên tháp bây giờ. Tháp Chăm tùy vào từng nơi, từng kiểu kiến trúc mà thờ những vị thần linh khác nhau, cầu mong cho mọi sự an lành, tốt đẹp và cũng là để các thế hệ con cháu tưởng nhớ đến công lao thế hệ đi trước.
Đừng bỏ rơi một huyền thoại
Năm 1991, tháp Yang Prông được công nhận là Di sản văn hóa kiến trúc cấp quốc gia. Đã 25 năm trôi qua, việc quản lý, khai thác di tích này hầu như không được quan tâm đúng mức.
Do vị trí nằm tách biệt với hệ thống kiến trúc tháp cổ Chăm Pa tập trung ở khu vực Nam Trung bộ, nên Yang Prông trở nên đơn độc trong cái lạnh lẽo của rừng già. Qua quan sát bằng mắt thường có thể thấy kiến trúc này ngày càng xuống cấp, hư hỏng.
Trong khi, thân tháp bị nứt nẻ, bong tróc lỗ chỗ, nhiều nơi rễ cây rừng ăn sâu vào, cỏ trên đỉnh tháp mọc tua tủa; các viên gạch vỡ nham nhở, quanh móng có nhiều hòn đá bị bể. Thời điểm trên chúng tôi không thấy có người trông coi nên vẫn có người đến thắp nhang, khiến sự uy nghi suy giảm, nhếch nhác.
Tháp Yang Prông đang xuống cấp |
Đến năm 2013, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk mới đầu tư một số tiền lớn để trùng tu di tích tháp Yang Prông với nhiều hạng mục như: Trùng tu, gia cố khung thép khu vực chung quanh tháp chính, xây dựng tường rào bao quanh, láng nền bằng xi măng với tổng diện tích 1.200 mét vuông, trồng cỏ, đặt ghế đá trong khuôn viên khu vực tháp.
Trao đổi với phóng viên, ông Lê Hồng Hạnh, Bí thư huyện Đoàn huyện Ea Súp cho biết: “Từ năm 2015, đơn vị chúng tôi được giao nhiệm vụ quản lý về lĩnh vực giữ gìn và bảo tồn tháp Yang Prông. Tháp cổ thì chúng ta chỉ có thể bảo vệ, việc trùng tu nhà nước đã có chính sách đầu tư riêng”.
Cũng theo ông Hạnh, hiện nay nguyện vọng của huyện đoàn là bảo vệ khu Rừng Xanh đồng thời mở rộng hơn nữa diện tích rừng. “Bằng cách vận động người dân trả lại phần đất đã lấn chiếm làm đất canh tác, phủ lên bằng những cây xà cừ loại lớn mà hiện nay chúng tôi đã có trong tay 100 cây, đợi mùa mưa tới sẽ tiến hành triển khai cho các đơn vị phối hợp thực hiện. Những chiến lược bảo vệ và phát triển của chúng tôi mang tính chất dài hơi, mong muốn quy hoạch trả lại tổng diện tích 35 hecta đất rừng ban đầu mà dân đã lấn chiếm làm đất canh tác”, ông Hạnh nói.
Ông Lê Hồng Hạnh, Bí thư huyện Đoàn Ea Súp |
Lý giải về sự xuất hiện của những bàn thờ quanh tháp, ông Hạnh cho biết: Khoảng những năm 2003, bên ngoài tháp có rất nhiều bàn thờ do người dân tự ý đặt và xây dựng. Vào thời điểm đó tháp còn u ám, hoang vu hơn rất nhiều so với hiện tại, thêm vào đó một số người lợi dụng sự mê tín của người dân đến đây để hành nghề xem bói, cúng bái rất mất mỹ quan.
Việc nhang khói nghi ngút rất nguy hiểm, nhất là trong mùa khô dễ dẫn đến cháy rừng. Huyện Đoàn đã kết hợp với chính quyền địa phương nhiều lần xuống giải thích cho người dân hiểu và vận động họ di dời những bát nhang thờ cúng đi chỗ khác. Thậm chí phải trực tiếp đập bỏ những am thờ bằng bê tông kiên cố bên ngoài tháp.
“Hiện nay, Huyện Đoàn Ea Súp kết hợp với các tổ chức đoàn thể khác trong thôn - xã thay nhau mỗi quý một lần vào dọn dẹp khuôn viên, cắt tỉa những cành cây khô. Đồng thời thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt, nói chuyện truyền thống tại đây”, ông Hạnh cho hay.
Trải qua bao tháng năm, tháp Yang Prông vẫn trường tồn giữa đất trời khắc nghiệt. Sự tôn nghiêm của ngọn tháp cũng như sự linh thiêng của vị “Thần vĩ đại” đã tạo ra sức mạnh vô hình bảo vệ sự nguyên sinh cho khu rừng. Ngược lại, những cây cổ thụ đứng sừng sững như đang vươn mình bảo vệ tháp bé nhỏ trong lòng cánh rừng già.
Không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, tháp Yang Prông mang sắc thái và văn hóa Chăm cổ xưa huyền bí. Dù gì cũng cần nhận định rằng, nếu các cơ quan chức năng không sớm chung tay bảo tồn tháp Yang Prông thì sẽ nhanh thôi, cả một huyền thoại về ngọn tháp kỳ bí này sẽ tan biến, vụn vỡ như tro bụi. Xin đừng bỏ rơi một huyền thoại giữa đại ngàn Tây Nguyên hùng vĩ!