Không thể trái Hiến pháp?
Ông Dương Đăng Huệ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự kinh tế, Bộ Tư pháp cho biết, Bộ luật Dân sự (BLDS) hiện hành quy định 6 hình thức sở hữu, gồm: Sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu chung; sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Sau rất nhiều cuộc rà soát, Dự thảo Bộ luật quy định ba hình thức sở hữu, gồm: sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.
Cũng theo Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự kinh tế, vấn đề này hiện có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất nhất trí với quy định của Dự thảo Bộ luật vì Điều 53 Hiến pháp đã quy định về sở hữu toàn dân và BLDS cần ghi nhận hình thức sở hữu toàn dân để phù hợp với Hiến pháp. Ý kiến này cũng cho rằng đối tượng của sở hữu toàn dân là những tài sản có giá trị lớn, là tư liệu sản xuất chủ yếu của đất nước, do đó sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu rất quan trọng cả về mặt kinh tế và chính trị.
Vì vậy, sở hữu toàn dân cần được coi là một hình thức sở hữu độc lập. Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cũng cho rằng cơ chế thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân có nhiều điểm đặc thù so với các hình thức sở hữu khác do chỉ có Nhà nước mới có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân và có chế độ pháp lý riêng cho Nhà nước thực hiện quyền này, do vậy cần quy định hình thức sở hữu toàn dân trong BLDS.
Ông Nguyễn Văn Cương, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý cho biết, “sở hữu toàn dân” là câu chuyện đặc thù của Việt Nam nên có học tập kinh nghiệm của quốc tế cũng rất khó. Tuy nhiên, nếu nói sở hữu toàn dân gây ra sự mù mờ về chủ sở hữu là không đúng vì trên thực tế có một số quyền không thể thực hiện đồng nhất với quyền sở hữu nhà nước được như quyền hưởng lợi từ tài sản thuộc sở hữu toàn dân, quyền kiểm tra giám sát đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân...
Ông Cương khẳng định, trong trường hợp Nhà nước được ủy quyền để thực hiện quyền sở hữu toàn dân thì không bao giờ quyền của người được ủy quyền lại rộng hơn và trùng khớp với quyền của người chủ sở hữu. Do đó, quy định về sở hữu toàn dân vẫn cần được giữ.
Chúng ta đang nhầm lẫn!
Là người theo quan điểm cho rằng cần bỏ quy định “sở hữu toàn dân”, ông Nguyễn Xuân Thu, Phó Giám đốc Học viện Tư pháp khẳng định: “Về hình thức sở hữu, có vấn đề là chúng ta đang nhầm lẫn giữa chế độ sở hữu và hình thức sở hữu”.
Theo đó, sở hữu toàn dân được quy định trong Hiến pháp (Điều 53) nên được hiểu là chế độ sở hữu. Trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể, cần xác định chủ thể là ai, cá nhân hay tổ chức nào có quyền và có nghĩa vụ dân sự. Trong sở hữu toàn dân thì không tồn tại chủ thể là toàn dân mà chỉ Nhà nước mới có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản công (với tư cách đại diện toàn dân). Do đó, nên hiểu sở hữu toàn dân là chế độ sở hữu, còn hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước.
Cùng quan điểm, bà Nguyễn Thị Kim Thoa, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, Bộ Tư pháp cho rằng: “Nếu chúng ta vẫn đặt vấn đề sở hữu toàn dân, tôi e rằng rất khó”. Theo Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính, quy định về sở hữu toàn dân ở một góc độ nào đó sẽ giúp luật không trái với Hiến pháp nhưng thực tế không có một cái gọi là sở hữu toàn dân với tư cách là người đại diện chủ sở hữu mà chỉ có sở hữu riêng, sở hữu chung và sở hữu nhà nước.
Ông Nguyễn Văn Lâm, Phó Cục trưởng Cục Kiểm soát thủ tục hành chính, Bộ Tư pháp thì mạnh dạn đề nghị bỏ hẳn khái niệm “sở hữu toàn dân” ra khỏi Dự thảo BLDS (sửa đổi) vì đó là một quy định “an toàn cho người xây dựng luật nhưng lại vô nghĩa cho xã hội”.
Theo báo cáo rà soát bước đầu quá trình góp ý Dự thảo BLDS (sửa đổi) của Bộ Tư pháp, tuy có rất ít ý kiến góp ý cho các quy định về hình thức sở hữu nhưng đây lại là một nội dung rất quan trọng tại Dự thảo BLDS (sửa đổi) và các ý kiến góp ý cũng chưa thống nhất được quan điểm về vấn đề này.