Chuyện quả phụ đi kiện đòi tài sản thời Vua Khải Định

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Bà quả phụ Nguyễn Thị Ngải sống vào năm Khải Định thứ 8 (1923) đã có đơn tố cáo anh họ chồng chiếm đoạt tài sản của gia đình mình khi người chồng qua đời. Cuối cùng phần thắng đã đứng về phía quả phụ.

Thân gái dặm trường kêu cứu lên quan lớn

Hành trình đến cửa quan tố cáo anh họ chồng có hành vị chiếm đoạt tài sản vợ chồng bà Ngải cũng đầy trắc trở, gian nan, do bà là phận gái côi cút, trong khi anh em bên nhà chồng lấn át bà. Thân gái trong xã hội còn đậm chất phong kiến đi kêu kiện không phải là chuyện đơn giản.

Sử cũ cho biết, ngày 20/1/1923, quả phụ Nguyễn Thị Ngải, người ở xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay là quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội) tố cáo Nguyễn Đăng Trản là anh họ của Nguyễn Đăng Thu (chồng bà Ngải đã qua đời). Bà Ngải tố cáo lên quan là ông Trản đã chửi bà và có ý định chiếm đoạt tài sản mà nhà bố mẹ chồng để lại. Còn nhà chồng bà trình bày rằng vợ chồng ông Thu, bà Ngải lấy nhau nhưng không có con nối dõi. Khi ông Thu chết, Nguyễn Đăng Giai, một người họ hàng bên nhà chồng sang chống gậy, chủ trì tang lễ giùm. Vì vậy, họ quyết định Nguyễn Đăng Giai sẽ thừa kế tài sản của anh họ.

Ảnh minh họa. (Nguồn: ST)

Ảnh minh họa. (Nguồn: ST)

Trong đơn tố cáo, bà Ngải cho biết: “Đến tháng Chạp năm ngoái con (Nguyễn Thị Ngải) xin phép đổi mả cho chồng con. Hôm ấy thấy tên Nguyễn Đăng Trản đem anh em ra giữ không cho con làm mả chồng, toan sinh sự”. Ngược lại nhà Nguyễn Đăng Trản phản bác như sau: “Khi Nguyễn Đăng Thu chết, Thị Ngải có báo tôi là tên (Nguyễn Đăng Giai) vào chống gậy cho tên Thu đưa ma thôi, nhưng hai năm sau tên Thị Ngải không nói gì với anh em chúng tôi, mà cứ đàn tiện cải táng cho chồng”. Mẫu thuẫn giữa bà Ngải và ông Trản nảy sinh từ đây và diễn ra vụ tố cáo.

Thông tin từ vụ án cho biết, ông Nguyễn Đăng Thương sinh được 3 người con trai: Con cả là Nguyễn Đăng Đài, con thứ hai là Nguyễn Đăng Cập và con út là Nguyễn Đăng Gập. Nguyễn Đăng Đài sinh được hai người con trai là Nguyễn Đăng Trản và Nguyễn Đăng Đệ. Nguyễn Đặng Cập chỉ sinh được một con trai là Nguyễn Đăng Thu (chồng bà Ngải). Nguyễn Đăng Gập sinh được hai con trai là Nguyễn Đăng Giai và Nguyễn Đăng Tí.

Ngày 16/12/1920 âm lịch, ông Nguyễn Đăng Thu qua đời lúc 26 tuổi. Ông Thu có hai đời vợ nhưng không có con nối dõi. Do vậy, vợ ông Thu là bà Ngải nhờ em họ chồng là Nguyễn Đăng Giai vào chống gậy cho chồng lúc đưa tang.

Phần ruộng ao của Nguyễn Đăng Thu vốn là tài sản do ông Nguyễn Đăng Thương để lại cho con thứ là ông Nguyễn Đăng Cập (bố ông Thu). Từ khi chồng qua đời, bà Ngải giữ toàn bộ di chúc của ông Nguyễn Đăng Thương và Nguyễn Đăng Cập (bố chồng) để lại. Khi đến ngày hết khó (giỗ hết) của chồng (2 năm sau ngày mất), bà Ngải không nói gì với anh em Nguyễn Đăng Trản, định cải táng cho chồng. Vì vậy, ông Trản đã qua nhà mắng chửi bà Ngải và không cho phép cải táng. Nhưng khi bà Ngải có giấy phép cải táng hợp lệ, anh em ông Trản cũng phải đồng ý.

Ngày 24/12 âm lịch, anh em nhà ông Trản cho rằng năm hết, Tết đến, ngày giỗ ông Thu cũng cận kề. Họ đã mời nội tộc và làm giấy để từ đường có người cúng Tết cho chú, thím mình. Nguyễn Thị Ngải đã khóc, ấm ức và không đồng ý với cách làm của nội tộc, bà đã phản ứng anh em ông Trản, khiến ông Trản bỏ về. Từ đây bà Ngải đâm đơn tố cáo lên quan và anh em ông Trản cũng có đơn trình bày việc tranh chấp này.

Công lý đứng về quả phụ

Sau khi thụ lý đơn tố cáo của bà Ngải, Tri phủ Hoài Đức lúc đó là Bùi Phát Tương đã có báo cáo Tổng đốc Hà Đông và khẳng định rằng: “Tôi xét thấy con Thị Ngải lấy tên Thu có sinh 2 đứa con, mà chết cả. Tên Thu chết Thị Ngải vẫn ở nhà chồng vẫn được 3 năm, lũ tên Nguyễn Đăng Chản (Nguyễn Đăng Trản) là anh con nhà bác đến nhà Thị Ngải lập tự, chia ruộng, mắng chửi thị ấy thực là trái phép, tôi đã hiểu bảo cho lũ tên Chản biết rằng: tên Thu chết rồi, thời sản nghiệp của tên ấy, tức là sản nghiệp của Thị Ngải, Thị Ngải vô tư thủ tiết thờ chồng, thời lũ tên Chản không được phép quấy Thị Ngải, nếu lũ ấy không tuân lời sẽ xin có lỗi”.

Tri phủ Hoài Đức viết báo cáo bằng chữ Quốc ngữ ngày 20/4/1923 và Tổng đốc phê duyệt vào ngày 23 cùng tháng với nội dung: “Theo luật, Thị Ngải vẫn thủ tiết ở nhà thờ chồng, thời vẫn được hưởng các sản nghiệp của chồng, lũ tên Chản không được quấy nhiễu nó, nếu không tuân sẽ đưa ra Toà án nghĩ phạt”.

Những vấn đề mà Tri phủ xem xét trong vụ việc này là việc tranh luận về tài sản thừa kế sau khi ông Thu mất. Tài sản của Thị Ngải có nguồn gốc từ đâu. Bà Ngải tự xưng rằng gia sản của mình bao gồm tài sản không chỉ của bố mẹ chồng để lại mà còn có phần riêng của vợ chồng bà. Nhưng theo ý kiến của Nguyễn Đăng Trản, phần ruộng ao của Nguyễn Đăng Thu là của ông bà Nguyễn Đăng Thương và vợ chồng chú hai là Nguyễn Đăng Cập. Vấn đề nữa, ai là người được thừa hưởng tài sản và làm cúng lễ.

Sơ đồ phả hệ 1 - gia đình nhà Nguyễn Đăng Thương.

Sơ đồ phả hệ 1 - gia đình nhà Nguyễn Đăng Thương.

Ông Trản bày tỏ quan điểm rằng nhà chú thím ông ta (nhà ông Cập) không có người nối dõi và ông ta phải lập tự - thay con trai chú thím thờ cúng. Bà Ngải kêu trong đơn rằng: “Con thiết tưởng tên Trản không phải là người thừa tự nhà con được sao dám chen tiện chiếm nhận của con như thế. Thật là ức hiếp. Con qua xin quan lớn thương con trừng trị tên ấy cho con kẻo con sợ tên ấy hống hách dữ rát như thế hoặc đêm hôm tối tăm làm hại đến sinh mệnh con là kẻ đàn bà một thân, một nhà không biết kêu ai được”.

Cuối cùng Tri phủ là về phe Thị Ngải và Tổng đốc cũng đồng ý như nêu trên. Một kết cục có hậu cho một quả phụ thủ tiết thờ chồng, một thân kêu cứu lên cửa quan và được bảo vệ quyền lợi chính đáng của gia đình.

Khoản mục quyền lợi phụ nữ trong Bộ luật Hồng Đức

Trong một nghiên cứu của chuyên gia người Hàn Quốc về sở hữu tài sản của phụ nữ thời Pháp thuộc cho biết: “Trong làng hồi đó có phong tục nếu nhà không có con trai thì anh em họ có thể trở thành chủ tang cho cố hữu và thừa kế toàn bộ tài sản. Nhưng phong tục này cuối cùng bị bác bỏ bởi một khoản mục quyền lợi phụ nữ được duy trì sau khi chồng chết trong Bộ luật Hồng Đức. Như vậy, Bộ luật Hồng Đức vẫn duy trì đến năm 1923” (Theo “Khảo sát về tình trạng sở hữu đất của phụ nữ trong xã hội thôn làng ở miền Bắc Việt Nam thời Pháp thuộc - Nghiên cứu Đông Nam Á” của Kim Jong - Ouk năm 2009).

Còn tác giả Trần Tuyết Nhung trong cuốn “Các thành tố gia đình, giới tính, chính quyền và xã hội ở Việt Nam thời kỳ cận đại” (NXB Phụ nữ) cho biết về quyền lợi của phụ nữ trong gia đình nhà chồng: “Để bảo đảm sự bảo vệ cho dòng dõi người chồng, nhà nước yêu cầu goá phụ phải giữ tiết hạnh với ông chồng quá cố. Và để đảm bảo quyền hạn của mình đối với tài sản gia đình, người phụ nữ phải chứng minh bản thân kiên quyết thủ tiết thờ chồng bằng cách không tái giá”.

Có thể thấy trong bối cảnh đất nước thuộc Pháp, còn mang nhiều tư tưởng phong kiến, phụ nữ Việt Nam đã có tiếng nói qua con đường tố tụng. Giá trị thủ tiết thờ chồng là một lựa chọn để họ tranh đấu cho quyền lợi và giá trị của họ. Điều này, nhiều quốc gia Phương Đông khó mà làm được. Như theo tác giả Trần Tuyết Nhung trong sách đã dẫn ở trên, thời nhà Thanh (Trung Quốc) goá phụ giữ tiết trinh thờ chồng khó mà giữ được tài sản của chồng theo ý mình.

Năm 1483, Vua Lê Thánh Tông sai các triều thần sưu tập tất cả các điều luật, các pháp lệnh đã ban bố và thi hành trong các triều vua thời Lê sơ, soạn định lại, xây dựng lại thành một bộ luật hoàn chỉnh. Đó là bộ Quốc triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức. Bộ luật Hồng Đức nói riêng và pháp luật thời Lê nói chung mang đặc thù của pháp luật Đại Việt, phản ánh chân thực và sâu sắc tình trạng xã hội nước ta thế kỷ XV và sau này.

Tính đặc thù của Quốc triều hình luật thể hiện rõ trong hai chương Hộ hôn và Điền sản. Qua hai chương này, các nhà làm luật đã coi trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ - điều mà các bộ luật trước và sau không mấy quan tâm. Có 53/722 điều luật (7%) bàn về hôn nhân - gia đình; 30/722 điều luật (4%) bàn về việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản. Những điều luật này ít nhiều đã đề cập đến một số quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội và trong gia đình.

Pháp luật quy định cụ thể ở các điều 374, 375 và 376 của Quốc triều hình luật, tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người. Còn khi chồng chết trước (hay vợ chết trước) tài sản có do bố mẹ dành cho được chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho gia đình bên chồng/vợ để lo việc tế lễ (bố mẹ bên chồng/vợ hoặc người thừa tự bên chồng/vợ giữ). Một phần dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời (nhưng không có quyền sở hữu). Khi người vợ/chồng chết, thì phần tài sản này giao lại cho gia đình bên chồng.

Đối với tài sản do hai người tạo ra cũng chia làm hai phần bằng nhau: một phần dành cho vợ/chồng làm của riêng; một phần dành cho vợ/chồng chia ra như sau: 1/3 dành cho gia đình nhà chồng/vợ để lo việc tế lễ; 2/3 dành cho vợ/chồng để phụng dưỡng một đời, không được làm của riêng, khi chết giao lại cho gia đình bên chồng…

Bộ luật Hồng Đức có ý nghĩa rất lớn trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Pháp luật ấy về cơ bản được duy trì để thi hành ở những thế kỷ sau, cho đến khi nhà Nguyễn ban hành bộ luật Gia Long thì uy tín, tinh thần những điều khoản luật Hồng Đức vẫn còn sống trong dân gian.

Đọc thêm

Huế thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam

Lễ hội đường phố “Sắc màu văn hóa” thu hút hàng nghìn người dân, du khách tham dự.
(PLVN) - Thừa Thiên Huế là địa phương đi đầu trong việc tổ chức một hình thái lễ hội đương đại mang tầm quốc gia, quốc tế. Trải qua hơn 24 năm tồn tại và phát triển, Festival Huế đã khẳng định được thương hiệu trong lòng du khách gần xa. Festival Huế đã là một sự kiện văn hóa tiêu biểu, trở thành thương hiệu nổi tiếng trong nước và quốc tế, là dịp để giới thiệu và quảng bá hình ảnh, đất nước, con người và văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa Huế nói riêng một cách sinh động.

Đẩy mạnh chuyển đổi số để tạo bước đột phá trong bảo tồn giá trị di sản ở Cố đô Huế

Nhiều du khách khám phá sự hiện đại với công nghệ số trong Đại Nội Huế
(PLVN) - Thừa Thiên Huế với 8 di sản Thế giới, khoảng 1 nghìn di tích lịch sử. Có thể khẳng định, quần thể Di tích Cố đô Huế có hệ thống đồ sộ với các công trình di tích có lối kiến trúc cung đình độc đáo. Vì vậy, để lưu giữ nguồn dữ liệu về những yếu tố gốc của các công trình di tích cho muôn đời sau, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã đẩy mạnh chuyển đổi số nhằm tạo bước đột phá trong bảo tồn giá trị di sản.

Chiêm ngưỡng tác phẩm nghệ thuật và kỷ vật quý của vị vua yêu nước

Cuốn sách Hàm Nghi Hoàng đế lưu vong - nghệ sỹ ở Alger. (Ảnh: Thùy Dương)
(PLVN) - Những hậu duệ của Vua Hàm Nghi đã hiến tặng các tác phẩm nghệ thuật và kỷ vật quý của Vua Hàm Nghi cho các bảo tàng, di tích Việt Nam. Những tác phẩm nghệ thuật và kỷ vật hiến tặng ấy minh chứng sống động cho một giai đoạn đầy thăng trầm trong lịch sử Việt Nam. Việc hiến tặng các kỷ vật của Vua Hàm Nghi có ý nghĩa quan trọng đối với công tác bảo tồn di sản, tôn vinh các giá trị lịch sử của dân tộc. Các kỷ vật được hồi hương, mở ra thêm cơ hội để người dân trong nước, đặc biệt là thế hệ trẻ được chiêm ngưỡng và tìm hiểu về vị vua yêu nước.

Lễ cầu ngư, thả hoa đăng trên sông Đà

Lễ cầu ngư, thả hoa đăng trên sông Đà
(PLVN) - Tối 15/11, tỉnh Hòa Bình tổ chức Lễ cầu ngư, thả hoa đăng trên sông Đà. Đây là hoạt động nằm trong khuôn khổ của Lễ hội cá tôm sông Đà lần thứ 2 năm 2024.

Thành cổ giữa lòng thành phố Biên Hoà

Thành cổ giữa lòng thành phố Biên Hoà
(PLVN) - Thành cổ Biên Hoà được người dân xây dựng vào đầu thời nhà Nguyễn. Đến năm 1834 vua Minh Mạng thứ 18 cho đắp lại bằng đất theo hình cánh cung, bốn mặt thành đều dài 70 trượng, cao 4 thước 3 tấc, dày 1 trượng, mở 4 cửa hào rộng 2 trượng sâu 6 thước, đặt tên là Thành Cựu

Vang xa những làn điệu Quan họ Bắc Ninh

Hát Quan họ trên thuyền. (Ảnh: Thanh Tùng)
(PLVN) - Sau khi Dân ca Quan họ được vinh danh, Bắc Ninh có nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực nhằm thực hiện tốt cam kết với UNESCO về bảo tồn và phát huy giá trị của di sản thế giới. Nhân kỷ niệm 15 năm Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) tỉnh Bắc Ninh cho biết, từ ngày 11 - 30/11/2024 sẽ có nhiều hoạt động đặc sắc.

Thêm hiểu sâu sắc về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương của dân tộc Việt Nam

NSND Vương Duy Biên, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng hoa chúc mừng Ban tổ chức chương trình. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Được sự nhất trí của UBND huyện, Phòng Văn hóa Thông tin huyện Cẩm Khê, hôm nay - ngày 10/11, Đảng ủy - Hội đồng Nhân dân - Ủy ban Nhân dân - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã Tuy Lộc và Ban quản lý di tích lịch sử Đình Hội tổ chức Lễ động thổ Đình Hội cùng các công trình phụ trợ và Tọa đàm Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

'Tấm vé' về với Hà Nội xưa

'Tấm vé' về với Hà Nội xưa
(PLVN) - Thủ đô nghìn năm văn hiến Hà Nội được ví như bảo tàng sống với hàng ngàn di tích lịch sử, văn hóa nổi bật. Vì thế, Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng bất tận, là đề tài rung động tâm hồn các nghệ sỹ trong nỗ lực gìn giữ văn hóa đất Kinh kỳ.

Đồng dao - Đi tìm di sản tuổi thơ xưa trong thời hiện đại

Đồng dao - Đi tìm di sản tuổi thơ xưa trong thời hiện đại
(PLVN) - Trong ký ức của nhiều thế hệ, đồng dao gắn liền với tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ vang vọng khắp sân làng, những trò chơi tuổi thơ đơn sơ mà thú vị. Những bài đồng dao ấy không chỉ là những lời ca vui vẻ, mà còn chứa đựng trong mình cả nền văn hóa, lịch sử và giá trị truyền thống của dân tộc.

Tôn vinh cây trà tổ 400 tuổi ở Suối Giàng

Tôn vinh cây trà tổ 400 tuổi ở Suối Giàng
(PLVN) -  Lễ hội tôn vinh cây trà tổ Shan tuyết hơn 400 tuổi được tổ chức trang trọng với nhiều hoạt động sôi nổi, đặc sắc nhằm gửi gắm ước mơ và cảm tạ trời đất đã ban phước lành cho dân bản.