Cần thống nhất quy định pháp luật
Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 (Luật TTTM) đã quy định các loại tranh chấp thuộc thẩm quyền của trọng tài gồm ba nhóm. Thứ nhất, tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại. Thứ ba, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Tuy nhiên, rà soát pháp luật, các chuyên gia nhận thấy, quy định nói trên của Luật TTTM lại không nhất quán với quy định tại một số luật khác về thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Ví dụ, khoản 2 Điều 177 Luật Nhà ở quy định, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nhà ở, hoặc Điều 203 Luật Đất đai cũng chỉ quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp nêu trong các luật trên, các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng nhà ở thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân, tranh chấp liên quan đến hợp đồng về nhà ở, hợp đồng quản lý vận hành nhà chung cư là các tranh chấp phát sinh giữa các bên/một trong các bên có hoạt động thương mại. Ví dụ: tranh chấp giữa người mua nhà với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, hợp đồng quản lý vận hành nhà chung cư với cư dân của nhà chung cư, …. Đây đều là các trường hợp mà theo Luật TTTM thì trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này.
Trong khi đó, Luật TTTM không quy định về ngoại lệ “trừ trường hợp luật có quy định khác” về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp được liệt kê tại Điều 2. Do đó, trên thực tế thi hành, không rõ trong trường hợp này sẽ phải tuân thủ quy định nào: Luật TTTM hay Luật khác.
Trong văn bản mới đây gửi Bộ Tư pháp, VCCI đề nghị thống nhất về thẩm quyền giải quyết của trọng tài trong các tranh chấp trong hệ thống pháp luật theo hướng: Hoặc là sửa Luật TTTM để bổ sung thêm ngoại lệ “trừ trường hợp luật khác có quy định khác”; hoặc là sửa các luật liên quan (Luật Nhà ở, Luật Đất đai) để phù hợp với Luật TTTM.
“Trọng tài nước ngoài” là ai?
Khoản 11 Điều 3 Luật TTTM quy định: “Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”.
Theo nhận định của các chuyên gia, thì khái niệm này là chưa bao quát hết trên thực tế, khiến cho một số trường hợp rất khó xác định là trọng tài nước ngoài hay trong nước.
Ví dụ, theo quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật TTTM thì: “Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thoả thuận”. Trên thực tế, trọng tài vụ việc không chỉ lựa chọn trình tự, thủ tục của một trung tâm trọng tài (trong nước hoặc nước ngoài) mà được thành lập theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Ủy ban pháp luật trọng tài thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (Quy tắc UNCITRAL). Với khái niệm trên thì đối với trường hợp hội đồng trọng tài được thành lập theo Quy tắc UNCITRAL thì không xác định được là trọng tài nước ngoài hay không, bởi, Quy tắc UNCITRAL không được xem là pháp luật trọng tài nước ngoài (khái niệm đang được hiểu là quy định của một quốc gia cụ thể nào đó).
Vì vậy, để đảm bảo tính toàn diện và phù hợp với thực tế, khoản 11 Điều 3 Luật TTTM được đề nghị sửa đổi theo hướng: Hoặc là quy định “Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật không phải pháp luật Việt Nam do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”, hoặc là quy định “Trọng tài nước ngoài là Trọng tài được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc quốc tế do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam”.
Cơ quan thi hành án nào có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài?
Xác định Cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài cũng đang là một bất cập trong thực tiễn. Theo quy định tại Điều 8, Luật TTTM thì “ Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết”.
Tuy nhiên, việc chỉ giới hạn thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài ở cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết đã gây ra một số khó khăn trên thực tế cho các bên thi hành án. Cụ thể, các doanh nghiệp thường có hoạt động kinh doanh tại khắp các tỉnh, thành trên cả nước. Trong khi đó, theo thống kê của một số trung tâm trọng tài thì nơi các Hội đồng trọng tài ra phán quyết chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Điều này dẫn tới việc các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp không có trụ sở kinh doanh tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phải mất nhiều thời gian để tới Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh để nộp đơn yêu cầu thi hành án. Sau khi cơ quan thi hành án tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhận được đơn yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài thì các cơ quan này lại phải ủy thác cho cơ quan thi hành án tại nơi bên phải thi hành có trụ sở hoặc tài sản. Quy trình này gây gia tăng chi phí và thời gian cho cả cơ quan thi hành án dân sự và bên phải thi hành.
Chính vì thế, quy định này đang được đề nghị sửa đổi theo hướng mở rộng phạm vi cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Theo đó, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài là cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng trọng tài lập phán quyết trọng tài hoặc nơi bên phải thi hành phán quyết trọng tài có tài sản hoặc có trụ sở chính./.