Vì sao Mạc Thái Tổ ban hiệu cho một người theo tên một cửa thành Thăng Long?

 Ai đi đến cửa Đại Hưng chẳng luồn (Hình minh họa)
Ai đi đến cửa Đại Hưng chẳng luồn (Hình minh họa)
(PLO) -Kinh thành Thăng Long xưa có bốn cửa chính theo bốn hướng Đông, Tây, Nam,   Bắc với tên gọi mang ý nghĩa khác nhau. Ít ai hay một trong những tên gọi ấy lại trở thành tước hiệu của một người theo lệnh đặc ban của Mạc Thái Tổ - vị hoàng đế đầu tiên nhà Mạc.

Nhà Hậu Lê kể từ khi Lê Uy Mục lên ngôi, triều chính bắt đầu suy đồi, mâu thuẫn nội bộ diễn ra ngày càng gay gắt, cuộc tranh chấp ngôi vua trong hoàng tộc triều Lê, những xung khắc dẫn đến giao tranh giữa các thế lực trong triều ngoài trấn đã khiến cho vương triều này lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng kéo dài từ khi Lê Uy Mục bị Lê Tương Dực lật đổ, trải qua các đời vua Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng.

Lấy tên cửa thành để phong tước

Trong bối cảnh ấy, một đại thần là Mạc Đăng Dung đã khôn khéo gây ảnh hưởng, tạo uy tín, xây dựng thế lực riêng của mình. Từ một vị trí thấp, dần dần con đường sự nghiệp của ông thăng tiến nhanh, rồi nắm quyền khuynh loát cả triều đình, phế lập vua, tự phong tước cho mình đến chức Thái sư, tước An Hưng Vương. 

Năm Đinh Hợi (1527) thấy thời cơ đến, Mạc Đăng Dung dẫn quân vào kinh ép vua Lê Cung Hoàng phải nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Mạc, đặt niên hiệu là Minh Đức. Bấy giờ quân dân phần nhiều ủng hộ ông, chính sử nhà Lê sau này cũng phải thừa nhận:

“Lúc này, thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón y về kinh đô” (Đại Việt thông sử). Trong một cuốn sách diễn ca có tên là Việt sử diễn âm cũng có đoạn viết: 

Thời vận đã tận nhà Lê,

Có mây ngũ sắc chầu về Đồ Sơn.

Thuận điềm xuất chấn thừa quyền,

Trời cho họ Mạc thiên nhan xem chầu.

Sau khi lên ngôi, để hạn chế sự bất bình trong dư luận xã hội về hành động cướp ngôi của mình, Mạc Đăng Dung (tức Mạc Thái Tổ) đã thi hành nhiều chính sách mềm dẻo, linh hoạt trong đối ngoại với nhà Minh và lấy lòng dân chúng trong đối ngoại.

Bên cạnh đó ông ra sức chiêu mộ nhân tài để có lực lượng phụng sự cho vương triều mới bằng nhiều hình thức như qua thi cử, qua tuyển chọn, bổ dụng thậm chí mời những người có tiếng tăm ra phục vụ triều đình.

Giai thoại về ban tước hiệu cho một người bạn cũ theo tên một cửa thành Thăng Long chính là một câu chuyện tiêu biểu cho chính sách chiêu mộ nhân tài của Mạc Thái Tổ, mặc dù ở khía cạnh nào đó, trong một số trường hợp nhất định ông gặp phải sự bất hợp tác.

Về xuất xứ tên gọi các cửa thành Thăng Long, theo chính sử vào năm Canh Tuất (1010) vua Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Đại La, nhận thấy có điềm rồng vàng hiện ra nên mới đặt tên là Thăng Long.

Để gây dựng cơ sở vật chất và kiến trúc cho xứng tầm với vai trò là kinh đô mới, Lý Thái Tổ đã cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài tại Thăng Long và xây thành với bốn cửa lớn, “phía đông gọi là cửa Tường Phù, phía tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía nam gọi là cửa Đại Hưng, phía bắc gọi là cửa Diệu Đức” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Cửa hướng Đông có tên là Tường Phù nghĩa là điềm tốt lành, với ý luôn đón  nhận sức sống, ánh sáng mặt trời từ phương Đông đến; cửa hướng Tây có tên là Quảng Phúc, nghĩa là phúc lớn trải rộng, đem lại phồn thịnh, đồng thời cũng là đón “phúc đẳng hà sa” của Phật từ phương Tây về.

Mạc Thái Tổ (1527-1529) (Hình minh họa )
 Mạc Thái Tổ (1527-1529) (Hình minh họa )

Cửa hướng Nam có tên là Đại Hưng, nghĩa là hưng thịnh lớn, tốt đẹp, bền vững dài lâu; cửa hướng Bắc có tên là Diệu Đức, nghĩa là đức sáng ngời, xua đi sự giá lạnh của phương Bắc, nó cũng có hàm ý làm tiêu tan mưu đồ đen tối của thế lực ngoại xâm đất bắc.

Trong số các cửa thành Thăng Long, cửa Đại Hưng (nay thuộc khu vực phố Cửa Nam, Hà Nội) đã trở thành tên hiệu của một nhân vật nổi tiếng thời Mạc, đó là Nguyễn Thế Nghi. 

Chân dung một nhân vật ngang tàng, kỳ lạ

Theo sách Công dư tiệp ký, Nguyễn Thế Nghi người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, xứ Hải Dương (nay thuộc huyện  huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), từ nhỏ đã nổi tiếng về tài thơ văn mà đặc biệt là thơ văn quốc âm, lại cũng nổi tiếng ngang tàng khắp thiên hạ.

Thuở thiếu thời Nguyễn Thế Nghi chơi thân với Mạc Đăng Dung, năm Đinh Hợi (1527) Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê lập ra nhà Mạc, lúc này Nguyễn Thế Nghi đang ở trong thành Thăng Long nhưng ẩn mình tại chùa Trường An (có sách chép là Trường Lạc) chứ không thèm ra cầu cạnh.

Mạc Đăng Dung biết được mới gọi vào cung, định phong cho chức quan nhưng ông từ chối không nhận, chỉ xin một tước, vua Mạc mới ban cho tước hầu, còn hiệu thì để Nguyễn Thế Nghi tự chọn, ông liền nói rằng: “- Nếu được, tôi xin hai chữ Đại Hưng để làm hiệu thôi!” 

Sau đó ông ra cửa Đại Hưng đề hai câu thơ Nôm ngay bên trái cửa:

Anh hùng ai nấy nhung nhăng,

Nào ai đến cửa Đại Hưng chẳng luồn.

Ý thơ có hai nghĩa, nghĩa đen là ai muốn vào thành Thăng Long đều phải chui qua cửa Đại Hưng nhưng cái “ngông” của Nguyễn Thế Nghi lại ở nghĩa bóng, ý là ai muốn vào thành thì phải luồn qua háng Đại Hưng hầu này! Câu thơ vừa tả thực, vừa khinh mạn những kẻ cơ hội đương thời nhưng vì biết mối quan hệ của ông với vị vua sáng lập triều Mạc nên không ai dám xóa những dòng chữ đó đi.

Tương truyền rằng một năm nọ, đoàn sứ phương Bắc sang nước ta, sắp đi qua cửa Đại Hưng thì nhìn thấy câu thơ xách mé kia, lòng tự ái nổi lên, họ dứt khoát không chịu “luồn” qua và họ yêu cầu triều đình phải bắc thang cho mình trèo qua.

Nguyễn Thế Nghi liền sai lính đi lấy thang, nhưng lại ngầm thả một con voi ra, lấy dùi nhọn đâm vào khiến voi chạy lồng về phía cửa Đại Hưng. Đoàn sứ “thiên triều” thấy thế cuống cuồng sợ hãi, không còn hồn vía nào nghĩ đến leo thang nữa, tất cả vội chạy tọt vào trong cửa Đại Hưng để trốn. Khi đó Nguyễn Thế Nghi mới cười mà chỉ vào 2 câu thơ và nói: “- Có đúng là “nào ai qua cửa Đại Hưng chẳng luồn” không thưa các ngài?” 

Đoàn sứ nước Minh biết mình bị một vố lừa đau, vừa thẹn vừa giận vì bị xếp xuống hàng những kẻ "nhung nhăng" nhưng sự đã rồi, đành im lặng mà thôi. 

Sách Công dư tiệp ký khi chép sự việc này thì cho biết đó là mưu kế của một vị quan khác: “Thời Minh Đức, sứ thần Trung Quốc sang nước ta, khi đến cửa Đại Hưng, biết đấy là hiệu của một thần tử nước Nam, bèn bắt dừng xe lại, không chịu đi tiếp nữa.

Hắn đòi bắc cầu qua phía trên cổng mới chịu vào. Quan tiếp sứ của ta là Thượng thư Võ Duy Đoán thấy thế liền giả vờ tuân theo. Ông ngầm bảo quản tượng xua voi đi qua, lúc đến sát chỗ sứ giả đứng thì lấy mũi nhọn chích vào mình voi khiến cho voi bị đau, gầm lên và chạy loạn xạ, ai cũng hoảng vía đi tìm chỗ nấp, xô nhau vào phía trong cửa Đại Hưng, sứ giả và đoàn tùy

tùng cũng vậy. Nhưng, khi vào rồi, họ mới biết là mình bị mắc mưu, đành nuốt hận làm lành. Chuyện này còn truyền tụng mãi cho đến nay”.

Về hậu vận của Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi, không rõ sau này ra sao nhưng trong sách Tục biên Công dư tiệp ký có cho biết thêm một số thông tin về ông như sau: “Sau Thế Nghi xuống tóc, xuất gia, tu ở chùa Trường Lạc tại kinh đô; rồi lấy vợ, để tóc, uống rượu, ăn thịt chẳng khác gì người ở kinh đô, đến cuối thời Mạc vẫn còn sống.” Bấy giờ họ Mạc hoang dâm, bê trễ chính sự, Thế Nghi bèn viết Lạc Xương phân kính quốc ngữ truyện để phúng thích, trong đó có câu:

Được Trần, Tùy lấy làm nga,

Đam mê sắc dục cưỡng gia nữ Trần.

Lời lẽ rất thiết thực, tiếc rằng vua không tỉnh ngộ. Truyền rằng, Thế Nghi từng diễn nghĩa Truyền kỳ, lời văn đẹp đẽ và làm bài phú Huyền Quang tống cung nữ, nay vẫn lưu hành trên đời”.

Tin cùng chuyên mục

Nhạc sĩ Văn Cao - tác giả ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”. (Ảnh: TL)

Những khúc ca mùa xuân đi cùng năm tháng

(PLVN) - Những ngày giáp Tết thật rộn ràng bởi những khúc ca xuân. Trong đó, không thể nào thiếu những ca khúc bất hủ đã đi cùng âm nhạc Việt nhiều thập kỉ. Đó không chỉ là bản hòa ca của niềm vui, tình yêu mà còn là giai điệu của những kí ức hào hùng đẹp đẽ, của niềm tin và hy vọng vào tương lai tươi sáng.

Đọc thêm

'Cánh chim đầu đàn' của nền âm nhạc cách mạng Việt Nam

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận có cống hiến to lớn cho nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. (Ảnh: Tư liệu)
(PLVN) - Được biết đến là người tiên phong trong sáng tác nhạc cách mạng, nhạc sĩ - chiến sĩ Đỗ Nhuận sở hữu kho tàng những tác phẩm âm nhạc cách mạng bất hủ, sống mãi với thời gian. Ngày nay, trong các buổi hòa nhạc hay đêm nhạc tôn vinh trang sử hào hùng và chói lọi của dân tộc Việt Nam, âm nhạc của ông vẫn vang lên như ngọn lửa bất diệt của lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

MV “Đà Nẵng vẫy gọi yêu” chính thức phát hành

MV “Đà Nẵng vẫy gọi yêu” chính thức phát hành
(PLVN) - MV “Đà Nẵng vẫy gọi yêu” chính thức phát hành vào tháng 12/2024. Đây là dự án âm nhạc mới nhất của nhạc sĩ Lê Minh Phương và đạo diễn Phan Ngọc Trung - được lấy cảm hứng từ ý thơ của nhà thơ Dương Quyết Thắng.

Lý do Kiều Duy đăng quang Hoa hậu Quốc gia Việt Nam 2024

Lý do Kiều Duy đăng quang Hoa hậu Quốc gia Việt Nam 2024
(PLVN) - Theo Trưởng Ban tổ chức Phạm Kim Dung, Kiều Duy được chọn vì sở hữu hình thể cân đối, hài hòa, trí tuệ xuất sắc và đáp ứng tiêu chí của cuộc thi. Cô có tố chất cần thiết để tham gia cuộc thi sắc đẹp quốc tế.

NSND Mai Hoa ra mắt đĩa than “Nốt trầm”

“Nốt trầm” không chỉ là một phong cách âm nhạc mà còn là thương hiệu giọng hát của NSND Mai Hoa (ảnh BTC).
(PLVN) - “Nốt trầm” không chỉ là một phong cách âm nhạc mà còn là thương hiệu giọng hát của NSND Mai Hoa. NSND Mai Hoa thích hát những bài buồn, nhưng là buồn ánh lên tia hy vọng, ánh lên niềm lạc quan về cuộc sống chứ không phải buồn não nề, bi ai.

"Hoa hậu Việt Nam năm 2024" góp phần nhân lên niềm tự hào dân tộc

Các Hoa hậu: Tiểu Vy, Ngọc Hân, Đỗ Thị Hà, Đỗ Mỹ Linh cùng hội ngộ (ảnh BTC).
(PLVN) - Được thiết kế chuỗi hoạt động giàu tính thực tế, đậm chất nhân văn, cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm 2024 sẽ góp phần nhân lên niềm tự hào dân tộc, lan tỏa lòng nhân ái và khát khao chinh phục những đỉnh cao mới trong mỗi người dân đất Việt, để từ đó làm "Rạng rỡ Việt Nam".

Nguyễn Mộc An dành Quán quân "Tiếng hát Hà Nội 2024"

Thí sinh xứ Nghệ Nguyễn Mộc An đã giành giải thưởng cao nhất của cuộc thi (ảnh BTC).
(PLVN) - Tối 25/12/2024 tại Nhà hát Hồ Gươm, Chung kết cuộc thi Tiếng hát Hà Nội 2024 do Đài Hà Nội tổ chức đã diễn ra với 15 thí sinh tranh tài. Với ca khúc "Lời ru" (sáng tác: Quang Thái) và "Mênh mang một khúc sông Hồng" (sáng tác: Phó Đức Phương), thí sinh xứ Nghệ - Nguyễn Mộc An đã giành giải thưởng cao nhất của cuộc thi.

Cần “luồng gió mới” cho phim truyền hình Việt Nam

Cần “luồng gió mới” cho phim truyền hình Việt Nam
(PLVN) - Sau giai đoạn thành công với các bộ phim về đề tài gia đình, phim truyền hình Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn khi các mô típ quen thuộc dần trở nên nhàm chán. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của những tác phẩm khai thác các đề tài mới mẻ cho thấy tín hiệu đáng mừng, khẳng định sự cần thiết của một “luồng gió mới” để làm phong phú mảng phim truyền hình và đáp ứng nhu cầu khán giả hiện nay.

Triển lãm “Thiên Quang” - câu chuyện ánh sáng đất trời Thăng Long

Triển lãm truyền tải ý nghĩa về ánh sáng đất trời, tri thức, văn hóa và lịch sử lâu đời đất Thăng Long (ảnh P.V)
(PLVN) - Triển lãm “Thiên Quang” khai thác câu chuyện về ánh sáng thiêng liêng của trời và đất soi chiếu Thăng Long - nơi hội tụ văn hóa, lịch sử và tinh hoa nghề thủ công truyền thống diễn ra tại khu Thái Học, Di tích Quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội). Từ ngày 22/12/2024 đến ngày 25/3/2025

Câu chuyện thoát nghèo của người phụ nữ Mường chinh phục Liên hoan phim quốc tế

Chị Bùi Thị Thu Huyền cầm trên tay hai chiếc cúp danh dự của Liên hoan phim SineMaya 2024. (Ảnh: TYM)
(PLVN) - Những ngày cuối năm 2024, tin vui đã đến khi bộ phim ngắn mang tên “Escaping Poverty: A Story of a Muong Woman Supported by TYM” được xây dựng dựa trên câu chuyện có thật của chị Bùi Thị Thu Huyền, một phụ nữ dân tộc Mường sống tại Thanh Sơn, Phú Thọ, đã đạt giải tại Liên hoan phim quốc tế SineMaya 2024. Bộ phim gây ấn tượng khi chị Huyền và các thành viên trong gia đình tự đóng vai chính, mang đến cảm xúc chân thực và sâu sắc.

Cuộc đời buồn của 'ông hoàng bolero' Trúc Phương

Những bản nhạc sầu thương đã vận vào đời nhạc sĩ Trúc Phương. (Nguồn: Amnhac.net)
(PLVN) - Nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng khoảng những năm 60 của thế kỷ trước với dòng nhạc bolero uyển chuyển, hấp dẫn. Mỗi câu hát, lời ca của ông đều gắn liền với thân phận con người trôi nổi, đau thương, buồn khổ. Có lẽ, âm nhạc đã vận vào cuộc đời của nhạc sĩ Trúc Phương “chữ tài đi với chữ tai một vần”.