Nét xưa hồn phố Hội
Tháng 8. Nắng thu trải vàng trên mọi ngả đường. Tiết trời đã bớt nóng nên không khí lễ hội hè thu càng xôm tụ. Không cần phải sân khấu hoành tráng, chỉ với một khoảnh đất nhỏ ven sông Hoài, người dân nơi đây cất lên những lời ca, điệu hò đối đáp mộc mạc nhưng sâu lắng. Nghệ nhân Lương Đáng (SN 1950, ngụ TP. Hội An) tiếp chuyện bằng câu à ơi mượt mà khiến nhiều người tấm tắc khen, quả không hổ danh “anh hiệu phố cổ”.
Ông Đáng cho biết, không ai nhớ điệu hát đối đáp bài chòi có từ bao giờ. Còn theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, bài chòi ra đời gắn liền với quá trình lao động sản xuất. Trong những buổi canh giữ hoa màu ngồi trên chòi gác, các thanh niên trai tráng đã nghĩ ra cách giao lưu với nhau bằng những câu hát, câu hò, giữa chòi này với chòi khác.
Lâu dần lan truyền ra khắp làng xóm, trở thành trò chơi phổ biến. Thông thường, người dân dựng 9 hoặc 11 chòi, chia thành 2 bên, mỗi bên 5 chòi, mỗi chòi cao độ 2-3m, rộng đủ vài người ngồi và một chòi trung tâm (chòi mẹ) ở giữa dành cho các vị chức sắc địa phương.
Về cách thức chơi, ông Đáng diễn giải, vào cuộc, anh hiệu (người chủ xướng trò chơi) đọc các câu trên lá bài, còn gọi người hô thai. Các câu thai như: Đi đâu cọ xiểng đi hài. Cử nhơn không đậu, tú tài cũng không (tức thằng Trò)…được rút ra và xướng tên. Chòi nào trúng tên con bài sẽ gõ mõ để anh hiệu mang con bài đến. Trúng ba con bài là chòi đó “tới”, xổ một hồi mõ dài.
Để giúp vui cho cuộc chơi còn có một ban nhạc cổ gồm đờn cò, kèn, sanh, trống hòa tấu lên khi có chòi “tới”… Theo ông Đáng, bài chòi hấp dẫn người chơi không chỉ bởi hình thức đơn giản, gần gũi, mà còn ở cách thể hiện chân thật, lời hát gần gũi, nói lên tâm tư, nguyện vọng của người dân ở miền quê chịu nhiều thiên tai, bão lũ này. Trong chiến tranh, người dân còn dùng bài chòi để ca ngợi tinh thần yêu nước hoặc ra ám hiệu mỗi khi có địch càn quét làng quê.
Với riêng nghệ nhân Lương Đáng, bản thân có gần 50 năm hô hát. Đến nay, bài chòi như đã ngấm vào máu thịt ông. Dân gốc Hội An, từ nhỏ đã được bà ngoại bồng bế đi xem bài chòi, tiếng hô, lời hiệu, câu à ơi như lời ru ăn sâu vào tâm thức cậu bé Đáng. Đến năm 15, ông Đáng đã hát bài chòi thuần thục trong hội làng. Vì bài chòi khi xưa được nhiều người ưa thích nên ông càng có điều kiện học tập, nghiên cứu rồi trở thành anh hiệu chính danh Lương Đáng.
Tuy nhiên, những năm 90 của thế kỷ trước, bài chòi có nguy cơ thất truyền và không được nhiều người biết đến. Cuộc sống xô bồ hơn, Tết cũng hiu vắng hội chòi. Quyết không để hồn xưa mai một, ông Đáng gõ cửa chính quyền, các cao nhân ở TP. Hội An với mong muốn phục dựng lại trò chơi dân gian này.
Anh Hiệu, chị Hiệu hô hát bài chòi ở Hội An |
Đưa bài chòi vươn tầm quốc tế
Tối tối, anh hiệu Lương Đáng cùng những người tâm huyết sửa soạn hội chòi ven sông Hoài. Đến năm 1996, dưới sự góp sức của ông Đáng, Nhà hát Nghệ thuật cổ truyền Hội An ra đời, đánh dấu bước ngoặt của nghệ thuật bài chòi được đưa lên sàn diễn, mở rộng không gian trình diễn hơn trước. Gần cuối năm 1998, sự kiện “Đêm phố cổ” Hội An tiếp nối và bài chòi xuất hiện trong không gian này như một sự kiện chính.
Không manh mún như nhiều nơi khác, Hội An có hơn 10 đội, nhóm hô hát bài chòi từ thành phố đến cơ sở, thường xuyên tham gia hơn 30 chương trình hằng năm. Các cụ cao niên, ai cũng thuộc làu vài ba câu hô bài chòi.
Không chỉ thế, bài chòi được kết nối với cả các thế hệ học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường. Năm 2004, Trung tâm VH-TT Hội An đã phối hợp cùng phòng giáo dục thành phố đưa dân ca, bài chòi vào trường học. Bài chòi còn được người Hội An đưa ra quốc tế như sang Thái Lan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Ý, Hungary, Nhật… Đến nay, nói đến Tết Hội mà không nhắc đến hội bài chòi xem như chưa biết về phố cổ.
Khi hát bài chòi, ông Đáng và nhiều người cũng gặp không ít những tình huống thú vị. Ông Đáng kể một kỷ niệm khó quên vào năm 2002. Khi đó, ông có hát một câu bài chòi rất quen thuộc mà bất cứ người miền Trung nào cũng biết: “Con cu ăn đậu ăn mè/Ăn chi của chị, chị đè con cu”. Nhưng có một cô gái người miền Nam nghe xong liền có ý kiến, lời hát “con cu” là hát tục.
Ông Đáng và những người tham gia liền giải thích rõ, con cu vốn tên gọi của con chim gáy có lông, có cánh, ăn (hạt) đậu, ăn (hạt) mè, có gì đâu mà tục. Khi hiểu rõ câu hát rồi, ai cũng cười. Mỗi miền có những kiểu nói riêng. Ví dụ như bài chòi Quảng Nam hay có những kiểu nói lái, nói ẩn dụ để gây cười, người nghe không hiểu cứ nghĩ bậy bạ, hát tục.
Theo ông Trần Đinh Châu, Phó giám đốc Trung tâm Văn hóa thể thao TP. Hội An, bài chòi là loại hình nghệ thuật dân gian chỉ có ở Trung Trung Bộ, nên dấu ấn văn hóa vùng miền thể hiện rất rõ, đặt biệt ở giọng nói.
Hiểu giá trị như vậy, các tỉnh miền Trung ngày nay đang cố công lưu giữ, phục dựng lại nghệ thuật dân gian bài chòi đúng nghĩa của sự mộc mạc, mang hơi thở cuộc sống của cộng đồng dân cư, hay chí ít cũng lập những hội bài chòi ngày Tết cho nhân dân vui chơi.
Không chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh lao động, thực tế bài chòi còn lên án thói hư, tật xấu vừa sâu cay, vừa dí dỏm lắng đọng trong lòng người nghe. Ông Châu đơn cử câu hát đầy ý vị: “Xu xoa chị bán mấy đồng. Chị ngồi để lộ cái mồng chị ra. Con quạ hắn tưởng bánh đa. Hắn đớp một miếng, chị la qướ trời”. Không những thế, chính những anh hiệu, chị hiệu quanh năm theo hát bài chòi cũng đúc rút cho mình nhiều lẽ đời qua từng câu hát.
Ông Châu cho biết, mới đây chính quyền các tỉnh miền Trung cùng nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết đang trong quá trình làm hồ sơ đệ trình UNESCO đề nghị công nhận bài chòi là di sản văn hóa phi vật thể thế giới… Khi điệu bài chòi vừa vang lên, người nghe cứ thế trở về với không gian ấu thơ, về niềm kí ức cũ mờ xa ngái nhưng đong đầy kỉ niệm ấm áp. Bài chòi theo đó sống thêm cuộc đời phố…
Bộ bài để đánh bài chòi là bộ bài tam cúc cải tiến có 33 lá, với những tên chuyển thành nôm na như: nhứt nọc, nhì nghèo, ông ầm, thằng bí, lá liễu v.v… vẽ trên giấy, dán vào thẻ tre. Mỗi thẻ tre dán ba con bài, không trùng lặp nhau.
Bộ bài gồm 3 pho gồm: Pho văn, pho vạn và pho sách. Pho văn có các con bài, như ông ầm, tráng hai, ba bụng, tứ tượng, ngũ ruột, sáu miếng, lá liễu, tám miếng, chín cu, chín gối. Pho vạn có bạch huê, nhứt trò, nhì bí, tam quăng, tứ móc, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng, cửu điều. Pho sách có ông Tử, nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ sách, ngũ dụm, sáu bưởng, bảy thưa, tám dây, cửu điều.
Mỗi pho có 10 lá, vì phải có 33 lá nên thêm vào 3 lá nữa là: ông ầm đen, tử cẳng đen và cửu điều đen (để phân biệt với 3 lá cùng tên này nhưng màu đỏ) cho đủ bài chơi.