Thừa phát lại được trực tiếp xác minh tại tổ chức tín dụng
Thông tư nói trên hướng dẫn việc xác minh điều kiện thi hành án của Thừa phát lại liên quan đến việc yêu cầu cung cấp thông tin về số dư tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi của người có nghĩa vụ thi hành án là khách hàng tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại trong thời gian thực hiện thí điểm.
Các quy định của Thông tư này được áp dụng trong các trường hợp: xác minh điều kiện thi hành án mà vụ việc đó thuộc thẩm quyền thi hành của các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại; xác minh điều kiện thi hành án ngoài địa bàn quy định tại Điểm a Khoản này trong trường hợp người có nghĩa vụ thi hành án có tài khoản, tiền gửi, tài sản gửi tại các tổ chức tín dụng ở địa phương đó.
Về hình thức, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin, Thông tư liên tịch nêu rõ: Việc yêu cầu cung cấp thông tin được thực hiện theo một trong hai hình thức: Thừa phát lại có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp thông tin; Thừa phát lại trực tiếp xác minh tại tổ chức tín dụng.
Ngoài quy định về nội dung Văn bản yêu cầu cung cấp thông tin, Thông tư quy định: văn bản yêu cầu cung cấp thông tin kèm theo các tài liệu liên quan quy định được gửi tổ chức tín dụng, đồng thời gửi Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại. Trường hợp thực hiện xác minh theo quy định thì Thừa phát lại phải đồng thời gửi các tài liệu trên cho Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thực hiện xác minh.
Từ chối cung cấp thông tin phải nêu rõ lý do
Ngoài quy định về các yêu cầu đối với Thừa phát lại, Thông tư cũng quy định việc cung cấp thông tin của tổ chức tín dụng. Theo đó, người đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin thông qua biên bản xác minh (trong trường hợp xác minh trực tiếp) hoặc bằng văn bản cung cấp thông tin theo quy định trong thời hạn 03 (ba) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu cung cấp thông tin.
Tổ chức tín dụng cũng có quyền từ chối cung cấp thông tin trong các trường hợp sau: Vụ việc không thuộc thẩm quyền xác minh của Thừa phát lại; trong cùng một vụ việc có cùng một nội dung yêu cầu tại cùng một thời điểm đã được Chấp hành viên hoặc Thừa phát lại khác thực hiện việc xác minh; khách hàng yêu cầu cung cấp thông tin không phải là người có nghĩa vụ thi hành án thuộc thẩm quyền xác minh của Thừa phát lại; thông tin yêu cầu cung cấp ngoài phạm vi các thông tin quy định tại Khoản 1 Điều 1 Thông tư này; hồ sơ yêu cầu cung cấp thông tin không đủ các tài liệu theo quy định. Trường hợp từ chối thì tổ chức tín dụng phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Đáng chú ý, Thông tư liên tịch quy định trách nhiệm sử dụng và bảo mật thông tin theo hướng thông tin cung cấp chỉ được sử dụng cho mục đích thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được bảo quản theo chế độ mật.
Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại, người yêu cầu xác minh điều kiện thi hành án và các cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm bảo mật thông tin được cung cấp và sử dụng đúng mục đích, kết quả xác minh theo quy định của pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Định kỳ 06 tháng hoặc đột xuất, Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm trao đổi với Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi thực hiện thí điểm về tình hình hoạt động có liên quan của các Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn.
Thông tư nói trên có hiệu lực từ 5/3/2014.