Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 36 Luật THADS, đối với Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản thì phải ra quyết định THA trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định.
Như vậy, 2 luật này chưa có sự thống nhất về thời gian ra quyết định THA. Cơ quan THADS chỉ có thể ra quyết định THA khi nhận được quyết định từ tòa án. Do đó, để xác định thời hạn ra quyết định THA đối với quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, khoản 2 Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản quy định: “Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định THA và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành”.
Như vậy, theo các quy định trên, khi nhận được quyết định giải quyết vụ việc phá sản thì cơ quan THADS ra quyết định THA chủ động và tổ chức thi mà không cần đến việc đương sự có yêu cầu THA như việc thi hành các bản án dân sự, kinh tế khác. Tuy nhiên hiện nay, trên thực tế một số quyết định tuyên bố phá sản chỉ tuyên dẫn chiếu đến bản án khác đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, nếu cơ quan THADS ra Quyết định thi hành chủ động để thi hành Quyết định tuyên bố phá sản thì chưa đủ các thông tin cần thiết để Chấp hành viên có cơ sở tổ chức THA. Vì vậy, đối với trường hợp này cơ quan THADS cần căn cứ đơn yêu cầu THA của đương sự, bản án đã có hiệu lực và Quyết định tuyên bố phá sản để ra Quyết định THA theo đơn yêu cầu là phù hợp quy định pháp luật.
Về nội dung quyết định THA, cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định của Tòa án (liên quan đến tài sản, buộc thực hiện công việc hoặc chấm dứt thực hiện công việc). Tuy nhiên, theo Điều 108 Luật Phá sản năm 2014, nội dung của quyết định tuyên bố phá sản bao gồm các nội dung: Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản; đình chỉ giao dịch liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã; chấm dứt thực hiện nghĩa vụ tính lãi đối với doanh nghiệp, hợp tác xã; giải quyết hậu quả của giao dịch bị đình chỉ; tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu; chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động, giải quyết quyền lợi của người lao động; cấm đảm nhiệm chức vụ sau khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản…
Như vậy, quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản có một số nội dung không thuộc thẩm quyền tổ chức thi hành của cơ quan THADS. Do đó, khi ra quyết định thi hành án cơ quan THADS cần lưu ý các nội dung của Quyết định tuyên bố phá sản để xác định nội dung Quyết định thi hành án như: Các khoản thuộc diện thu hồi nợ cho doanh nghiệp phá sản, buộc thực hiện công việc hoặc chấm dứt thực hiện công việc thuộc trách nhiệm thi hành của cơ quan THADS tổ chức thi hành. Phần thanh lý tài sản còn lại của doanh nghiệp hợp tác xã phá sản mà cơ quan THADS vẫn chủ động ra quyết định THA nhưng sau đó có văn bản yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản tổ chức thi hành nội dung này…
Không như việc thi hành các bản án khác, khi thi hành quyết định tuyên bố phá sản, chấp hành viên phải mở một tài khoản tại ngân hàng đứng tên cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản để gửi các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Sau khi có quyết định THA thì tất cả các khoản tiền mà Chấp hành viên, Quản tài viên doanh nghiệp quản lý thanh lý tài sản thu được đều phải gửi vào tài khoản này để Chấp hành viên thực hiện việc phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố phá sản.