Những nẻo đường hóa duyên

Những nẻo đường hóa duyên
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Không nhất thiết phải tới chùa mới có thể làm công quả, mới có thể thấy Phật. Càng không phải ở nơi những vị tu hành, mới thấy được bóng dáng của một Thiền sư.

Chúng tôi lại rong ruổi trên những con đường quê. Nơi này, cũng dưới những áng mây trắng thong thả bay ngang, cũng những cánh đồng lúa và núi non thăm thẳm, những mùi hương quê ngai ngái thảo thơm nhưng hôm nay, có một vị thiền sư đã đi qua. Ngài đặt từng bước chân trên nẻo đường hóa duyên khắp các miền đồng bằng Bắc bộ từ kinh đô Hoa Lư xưa...

Tôi muốn kể cho quý vị nghe đôi dòng về những bước chân mà vị thiền sư ấy từng qua. Những bước chân trên nẻo đường rất đỗi bình thường, dung dị. Thiền sư xuất thân từ nghề chài lưới, từng là đạo sĩ, chân nhân, từng là thầy thuốc chữa bệnh cho dân, cho vua, lại từng là quốc sư. Với các truyền tích và sắc phong còn lưu, ngài còn là người có công tạo nên An Nam tứ đại khí và từng là một vị thánh trong tứ bất tử của dân tộc. Đó là thiền sư Minh Không – quốc sư triều Lý.

Nước ta, dưới thời Lý, vua lấy Đạo Phật làm nền tảng để trị quốc, an dân. Đất nước trải suốt triều đại Lý Trần được cho là giai đoạn thuần từ nhất trong lịch sử.

Thẳm sâu trong tâm mỗi người đều có bóng dáng một ngôi chùa, bóng dáng một thiền sư...
Thẳm sâu trong tâm mỗi người đều có bóng dáng một ngôi chùa, bóng dáng một thiền sư...

Thời vua Lý Nhân Tông, có rất nhiều những người tu đạo. Họ am hiểu Lão – Nho – Phật và từ cái thấy của mình, họ đã tìm ra một chiều hướng tâm linh cho cả dân tộc. Chiều hướng tâm linh ấy, có sự kết hợp của đạo lý “Uống nước, nhớ nguồn”, lấy việc thờ phụng tổ tiên, lấy hiếu đạo làm gốc. Có thờ thì có cúng, có giỗ để bày tỏ lòng thương tưởng, kính ngưỡng đến tiền nhân. Việc thực hành các nghi thức cúng tế tuy vậy được tiếp biến hài hòa với giáo lý Phật giáo và nhờ đó, đạo Phật cũng mang thêm màu sắc mới. Màu sắc của quá trình bản địa hóa. Một đạo Phật hoàn toàn thuần Việt. 

Đến thời Trần, bằng chứng chúng ta còn lại trên văn bản cụ thể nhất chính là cuốn “Bảo đỉnh hành trì bí chỉ toàn chương” của Trúc Lâm tam tổ Huyền Quang nói về niêm luật hành trì, cách làm đàn lễ cúng bái với sự kết hợp nhuần nhuyễn Phật – Lão. Cho đến ngày nay, các thầy tu, các thầy cúng và lễ tục trong dân gian vẫn áp dụng.

 

Thời Lý, những ngôi chùa được dựng lên khắp các làng quê, đặc biệt là ở vùng đồng bằng Bắc bộ. “Đất vua”, nhưng chùa là “Chùa làng”. Chùa là nơi có những vị thiền sư dạy học, làm thuốc chữa bệnh cho dân. Chùa còn là nơi để người dân trong làng ấy nương tựa giáo lý và lời chia sẻ của những thầy chùa mà biết sống tốt đời, đẹp đạo.

Cái nết lành thiện, từ bi, hiếu đễ được vun bồi như thế qua nhiều ngàn năm cùng nhiều bước chân miệt mài của những vị thiền sư như: Thiền sư Vạn Hạnh, Giác Hải, Không Lộ, Đạo Hạnh, Mãn Giác, lại có những vị giữ những trọng trách trong triều đình như vua Lý Anh Tông, Đỗ Anh Vũ, Đỗ Đô, v.v... Cho đến thời Trần, chúng ta có vua Phật - Phật Hoàng Trần Nhân Tông, lại có những vị tu đạo như: Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn...

Nếu xét từ góc độ lịch sử, những vị thiền sư không sống như thời nay. Họ có thể là vua, quan, là đạo sĩ. Họ có gia đình, có vợ con. Khi khảo văn bia về các vị, chúng tôi thường thấy ghi rất cụ thể về cuộc đời làm quan, về vợ con bên cạnh công hạnh và sự nghiệp của họ.

 

Có lẽ, sau quá trình tu tập, họ đã chọn đi vào cuộc đời với tinh thần nhập thế. Như lời vua Lý Nhân Tông từng nói: “Các vị thiền sư, ngoài sức định tuệ thì còn phải phò vua, giúp nước”. Đạo Phật, vốn không chỉ ở nơi cửa thiền. Phò vua, giúp nước, ấy chính là “hộ quốc, an dân”.

Các vị đã rong ruổi khắp những vùng quê để giúp dân. Chúng tôi cảm thấy xúc động khi tìm đến bất cứ vùng đất nào có dấu chân Thiền sư, người dân tưởng nhớ các vị từ những câu chuyện dung dị gần gũi như: Ông tổ nghề Rèn, nghề đúc đồng, múa rối, v.v.. hay những câu chuyện gánh núi, lập làng, dựng chùa. 

Các vị là thiền sư nhưng được dân thờ làm Thành hoàng làng để bảo hộ cho dân làng đời sống ấm no, yên vui, lại được Vua sắc phong qua các đời là Thần, Thánh bởi có công: Hộ quốc, an dân. “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, là vậy!

Trong cuốn “Nẻo về của ý”, thiền sư Nhất Hạnh qua lời chia sẻ của một nhân vật, ngài đã nói: “Thật ra tại giác ngộ ta đặt Phật trong chùa để mà thờ chứ Phật đâu có muốn ngồi trong đó để hưởng xôi, chuối và hương hoa quả của thiên hạ. Những ông Phật như Phật Dược Sư, Phật Quán Âm, làm sao mà ngồi nhà được.

Phật Dược Sư ngồi hoài trong chùa thì ai đi chữa bệnh cho thiên hạ thân bệnh và tâm bệnh? Phật Quán Âm, tức là Quán Thế Âm thì chắc là phải đi hoài, bởi vì Quán Thế Âm là “lắng nghe tiếng kêu đau thương của cuộc đời” mà tìm tới. Kinh Pháp Hoa đã chẳng định nghĩa như thế sao. Vậy thì mấy người học trò của mấy ông Phật không lý cứ ở lỳ trong chùa khi các bậc thầy mình có mặt trong những nơi có khổ đau của cuộc đời sao? Như thế không phải là học trò của mấy ông Phật mà chỉ làm nô lệ của những pho tượng”.

Đạo Phật khi du nhập vào các quốc gia trên thế giới đã được đón nhận và phát triển rực rỡ. Tuy vậy, ở Việt Nam, Đạo Phật có một đặc điểm khác biệt sâu sắc. Đó chính là tinh thần nhập thế.

Trên những nẻo đường quê, mong tìm lại dấu chân của người xưa, một vị thiền sư đã đi vào cuộc đời dưới màu áo của đạo sĩ, cầu mưa nắng khi trời hạn hán thiên tai, chữa bệnh cho dân, cho vua; ngài đã đặt những nền móng đầu tiên cho tư tưởng nhập thế của Phật giáo sau này. Các vị đã làm nên nền tảng cho một chiều hướng tâm linh của dân tộc. Các vị thần, thánh mà nhân dân ta thờ phụng vốn đều là những con người đã có công giúp dân, giúp nước. Họ tạo ra những đổi thay và định vị cho dân tộc những nền tảng văn hóa để con cháu ngàn đời sau tiếp nối và phát triển.

 

Ngày nay, chúng ta hiểu, mình không nhất thiết phải tới chùa mới có thể làm “công quả”, mới có thể thấy “Phật”. Càng không phải ở nơi những vị tu hành, mới thấy được bóng dáng của một “Thiền sư”. Dĩ nhiên, những người xuất gia, cắt ái từ thân để quyết đi trên một con đường sáng mà học đạo, hành đạo ấy vô cùng đáng quý trọng, đáng kính. Nhưng không vì vậy, mà ta thiếu đức khiêm cung và lòng cung kính với những vị Bồ Tát đang đi vào cuộc đời. Họ có thể là một người rất đỗi nhỏ bé, bình thường. Có thể hôm qua, họ là một người vừa vụng về để cho mình học được hạnh bao dung và tình thương được trải rộng. Có thể, hôm nay, họ lại là một người vừa ngang ngược để cho mình nhẫn nại, vị tha.

Tôi nhắc đến điều này là bởi, có một câu chuyện hồi chiều, tôi vừa bị mắng khi chụp tấm bia trong một ngôi chùa mà chưa bạch với thầy trụ trì. Thầy có lẽ đang nóng giận, lại thấy tôi trong dáng vẻ bình thường không bận chiếc áo dài, nên quyết đưa ra công an để nói chuyện. Tôi gặp rắc rối một chút, lại chợt nghĩ, nếu như các vị xưa bởi dính mắc nơi sự phán xét vì một màu áo, vì một việc làm như cầu đảo nắng, mưa hay việc ra làm quan, có gia đình.v.v.. Nếu bị dính mắc, nếu bị sự phán xét như một màn lưới sắt giam hãm, liệu có có một Quốc sư được dân gian tôn làm phúc thần, làm thánh tổ đại pháp thiền sư?

Tôi viết những dòng này gửi đến quý vị sau một ngày điền dã. Người thấm mệt, trời lại bất chợt đổ mưa. Nhưng tâm nguyện với tiền nhân trở thành nhiệt huyết để nâng đỡ và giúp tôi thêm bền bỉ. Tôi ghi lại để chia sẻ cùng quý vị những ý, những tứ bất chợt đến. Những ngày mừng Phật đản sinh, nguyện cầu cho sự đản sinh của một vị Phật, của một vị thiền sư sẽ được biểu hiện nơi mỗi người. 

Nguyện cầu những trái tim có lý tưởng, có hạnh nguyện độ sinh đi vào đời sẽ gặp được nhiều thiện duyên, sẽ thành tựu công hạnh. Nguyện cầu những bước chân hóa duyên nơi mỗi chặng đường có trắc trở thì cũng vững vàng, bền bỉ và bước chân ấy sẽ gieo được những hạt giống lành của hiểu, của thương, của Phật tính, nơi cuộc đời.

Xin khép lại những tản mạn bằng một tâm nguyện rất đẹp của những người con Phật, cũng là tâm nguyện của tôi với cuộc đời..

“Ngày mai, nếu chúng tôi có cháy thành tro bụi thì tro bụi ấy cũng sẽ là tình yêu. Chúng tôi, lúc đó là tro bụi, sẽ thấm vào lòng đất, sẽ làm chất bón tươi tốt cho một loài hoa, nở những bông hoa cho loài người, những bông hoa không biết oán thù là gì. chúng tôi sẽ luân hồi trở lại bao nhiêu lần, hoặc là hoa, hoặc là cỏ, hoặc là chim, hoặc là mây, hay trong bất cứ hình thái nào, hiện tượng nào. Chúng tôi muốn trở lại hoài, trở lại để mà mang đến cho con người bức thông điệp tình yêu bất diệt ấy" - Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết như vậy trong cuốn “Nẻo về của ý”. 

Tin cùng chuyên mục

Bụt trong con sinh chưa?

Bụt trong con sinh chưa?

(PLVN) - Tháng Tư là mùa Bụt sinh, mùa sen nở. Trong tâm mỗi chúng ta đều có một đức Phật. Cũng giống như trong một cái đầm hay một cái ao, nếu biết gieo vào và ươm mầm, nhất định ta sẽ trồng được những đóa sen thơm.

Đọc thêm

Những ngọn gió ngát hương…

Những ngọn gió ngát hương…
(PLVN) - Như là đất, là nước, là ánh mặt trời, là lá hoa và những ngọn gió thơm hương... cứ tự tại, an nhiên và cần mẫn dâng hiến cho đời. Lặng lẽ, khiêm cung nhưng cũng đầy kiêu hãnh.

Đền Bạch Mã – Tứ linh xứ Nghệ

Quảng cảnh đền Bạch Mã.
(PLVN) - Bạch Mã là ngôi đền có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của nhân dân trên mảnh đất Nghệ Tĩnh. Ngôi đền này được xếp thứ 3 trong hàng ngũ "tứ linh": "Nhất Cờn, nhị Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng". 

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ
(PLVN) - Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo...

Thắp sáng lòng biết ơn

Thắp sáng lòng biết ơn
(PLVN) - Thắp sáng lòng biết ơn và ý thức về nguồn cội chính là làm cho tâm thức văn hóa của dân tộc trở thành nguồn mạch, thành dòng nhựa sống nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và hiếu hạnh dân tộc Việt.

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh
(PLVN) - Ngày mùng 8 tháng 4 là ngày Bụt ra đời. Gần 3000 năm trước, từ bước chân của con người vĩ đại ấy, nhân loại được biết đến một sự thật lớn: “Tất cả chúng sinh đều có tính Bụt”.

Điển tích Chùa Bổ Đà có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất

Một góc chùa Bổ Đà.
(PLVN) - Chùa Bổ Đà là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Chùa là quần thể lớn, tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang - danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Chùa Bổ Đà có điển tích huyền bí, cũng như có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất.

Dấu xưa thời khẩn hoang lập ấp ở ngôi đình cổ nhất phương Nam

Ngôi đình với kiến trúc truyền thống độc đáo vẫn đứng vững theo thời gian.
(PLVN) - Đình Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, TP HCM) đã có từ hơn 3 thế kỷ trước, từ thuở những nhóm cư dân đầu tiên xuôi Nam vượt ngàn dặm đường đến vùng Gia Định mở đất. Trải qua bao biến thiên dâu bể, ngôi đình cổ nhất đất Nam Bộ này vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc và nghệ thuật kiến trúc truyền thống độc đáo.

Ngôi đền thiêng thờ vị thần “hộ dân bảo quốc” suốt 4000 năm lịch sử

Toàn cảnh đền Đồng Cổ.
(PLVN) - Đó là đền Đồng Cổ thờ thần Đồng Cổ - vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngôi đền tọa lạc tại làng Đan Nê (xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) tương truyền có từ thời Hùng Vương, soi bóng xuống hồ bán nguyệt, bên cạnh là núi Tam Thai có quán Triều Thiên trên đỉnh nhìn xuống toàn cảnh sông Mã.

longformNgôi đền thiêng 1500 tuổi nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà“

Đền Xà.
(PLVN) - Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang, tọa lạc tại thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) có niên đại từ thế kỷ 6 đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988. Ngôi đền thiêng cũng là nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà” - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. 

Đình Quan Lạn – Ngôi đình thiêng 300 tuổi bên sóng nước Vân Đồn

Đình Quan Lạn đã có lịch sử hơn 300 năm.
(PLVN) - Đình Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) được xây dựng ở giữa làng, nhìn ra vịnh biển nơi có ba hòn đảo tạo nên bức bình phong, phía sau tựa vào năm ngọn núi... Các bậc tiền đã xây dựng ngôi đình Quan Lạn với lối kiến trúc độc đáo ghi dấu ấn văn hóa của người Việt trên vùng biển Đông Bắc. Điều đó không chỉ được thể hiện qua sự độc đáo của kiến trúc mà còn ngay trong lễ hội có một không hai của đình Quan Lạn. 

Ngôi đình 300 tuổi đẹp nhất xứ Kinh Bắc còn tồn tại đến ngày nay

Đình Bảng là một trong những ngôi đình làng đẹp nhất xứ Kinh Bắc.
(PLVN) - Trong suốt gần 300 năm, trải qua hàng loạt những biến cố của lịch sử dân tộc ngôi đình làng Đình Bảng (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) vẫn đứng vững. Đình làng Đình Bảng từ lâu đã được coi là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Kinh Bắc và cả Việt Nam, bởi đây là một công trình kiến trúc cổ đồ sộ chứa đựng giá trị nghệ thuật trang trí gỗ truyền thống đặc sắc. 

Cổ tự trăm tuổi với tập tục “đánh kẻ tiểu nhân” ở Sài Gòn

 Hội quán Ôn Lăng được cộng đồng người Hoa xây dựng năm 1740.
(PLVN) - Được xây dựng từ gần 300 năm trước, Hội Quán Ôn Lăng (đường Lão Tử, phường 11, quận 5) là điểm đến linh thiêng trong cộng đồng người Hoa ở TP HCM. Nơi đây nhiều năm qua được biết đến với tập tục có một không hai - “đánh kẻ tiểu nhân”, mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an đồng thời xua đuổi những điều xui xẻo, những “kẻ tiểu nhân” đi theo quấy rối mình.

Bí ẩn xung quanh hai pho tượng trong ngôi chùa Cầu Đông

Tượng thờ Thái sư Trần Thủ Đô và vợ Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung.
(PLVN) - Theo tài liệu nghiên cứu về 1000 năm Thăng Long do nhà văn Tô Hoài và nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc chủ biên thì chùa Cầu Đông là chùa duy nhất ở Hà Nội hiện nay thờ vợ chồng Thái sư Trần Thủ Độ. Tuy nhiên, nguồn gốc và lịch sử về hai pho tượng này đến giờ vẫn là một bí ẩn.