Về miền thương nhớ
“Ngày xưa tầm độ này, ông em đã vót tre chuẩn bị đồ làm đèn Trung thu cho em…”. Câu chuyện của cô đồng nghiệp lung linh khoảng ký ức trong vắt, ngọt ngào của một thời xa lắc. Trong đó, có những chiếc đèn ông sao được làm bằng khung tre dán giấy bóng kính do ông nội tận tay làm. Có trái hồng chín đỏ hái trong vườn, có gói kẹo bột mẹ mua về từ chợ phiên cho con bày cỗ trung thu….
Nỗi nhớ của cô bé cũng làm tôi muốn về nhà tôi quá. Muốn về ngôi nhà của tuổi thơ xa lắc, ở đó, tôi cũng có một khoảng trời ký ức ngọt ngào, có những ngày trung thu rưng rưng….
Tôi nhớ bố tôi. Cứ vào đận sắp Trung thu, ông lại ngồi vót tre làm đèn ông sao cho tôi, chiếc đèn năm bé xíu, năm to đùng, tùy vào… số giấy bóng kính màu bố có. Tôi nhớ lúc mẹ hối hả từ cửa hàng tem phiếu trên huyện về, lấy ra cặp bánh nướng, bánh dẻo gói trong tờ giấy nến đẫm dầu mỡ, cẩn trọng đặt lên bàn thờ… Cận ngày Trung thu, mẹ làm thêm nồi bánh, khi là bánh tẻ, bánh đúc, khi là bánh dợm (bánh nếp nhân đỗ).
Thời ấy, mâm cỗ Trung thu của lũ chúng tôi có một thứ không thể thiếu, đó là ông tiến sỹ giấy. Chừng mươi hôm trước ngày rằm tháng 8, gánh hàng mã ở góc chợ quê tôi tràn ngập sắc xanh lá, đỏ tía của các ông tiến sỹ giấy. Tuy chỉ là một sản phẩm làm bằng mấy que tre và tờ giấy mỏng manh, nhưng chứa đựng cả bầu trời mơ ước của bố mẹ về sự thành đạt, hiển vinh của con cái sau này. Tôi nhớ những ông tiến sỹ giấy của mình, tôi đã nâng niu nó như nâng niu một “niềm tin linh thiêng”.
Chiều Trung thu, mẹ hái thêm quả bưởi, quả na, quả hồng trong vườn, thế là tối đó mấy chị em hí hửng bày cỗ trông trăng… Tiếng trống rộn làng, tiếng gọi nhau đi rước đèn, tiếng những đứa trẻ hát bài trông trăng… như vẫn còn văng vẳng đâu đó trong miền thương nhớ của tôi.
Khi trăng tròn vằng vặc giữa sân, mâm cỗ được “phá”. Ông tiến sỹ sẽ được mẹ cẩn trọng đặt vào một chỗ trang trọng, đẹp đẽ trong nhà… để dành cho năm sau. Chiếc đèn ông sao cũng thế, cũng được treo vào đâu đó với ý định năm sau dùng lại. Nói là vậy, nhưng cũng chẳng khi nào bụi bặm, mối mọt để cho những món đồ chơi ấy của tôi tồn tại quá vài ba tháng. Ấy nhưng, cái sự dành dụm, tiện tằn dường như lại là một bài học mà tôi đã ngấm vào từ những món đồ cũ bố mẹ cất đi.
Ướp mùi hương cho căn bếp nồng nàn
Kể chuyện Tết trung thu xưa trên phố cổ Hà Nội. (Ảnh: BQL Phố cổ). |
Trong sự tất bật của cuộc sống vội, sống nhanh nơi thành thị, tôi miệt mài nuôi hy vọng gieo lại miền thương nhớ qua những buổi tối ngày cận rằm ngồi cùng con dán những tờ giấy màu thành chiếc đèn trung thu của riêng mình. Tôi lụi cụi bày vẽ để gian bếp nhỏ sực nức mùi bánh. Chiếc bánh dẻo xanh ngắt này cho cô chị, vì chị thích vị trà xanh. Cậu em sẽ là chiếc bánh đẫm vị socola. Còn cô út nhí nhố nhưng lại yêu màu hồng hẳn sẽ có một chiếc bánh để thấy rằng mẹ yêu thương mình nhất.
Lũ trẻ nhiều khi cũng cằn nhằn, tính toán sự cặm cụi của mẹ với giá trị của những chiếc bánh mua sẵn. Nhưng năm nào thấy phố phường bắt đầu rộn ràng màu sắc Trung thu mà không thấy bếp nhà mình có gì khác lạ, lại thắc thỏm: Ơ, thế Trung thu năm nay nhà mình không có gì à?
Không có gì sao được, khi chúng ta đang có một nơi gọi là “mái ấm”. Có một người mẹ mong mỏi các con thật giàu có dù chỉ trong một khoảng ký ức của ngày thơ bé! Và tôi lại bắt chước bố tôi, làm cho con những cái đèn lồng nho nhỏ. Bắt chước mẹ tôi ướp mùi hương tuổi thơ cho căn bếp nồng nàn mùi hạnh phúc!
Dẫu cho, trong bối cảnh thị trường bánh trung thu nở rộ với hàng trăm kiểu nhân, hàng ngàn hình dáng, chả phải vô cớ mà những cửa hàng bánh Trung thu với hương vị cổ truyền như Bảo Phương (Hà Nội), Đông Phương (Hải Phòng) lại luôn tấp nập khách. Người mua thậm chí phải xếp hàng nhẫn nại hàng giờ đồng hồ mới được mua cặp bánh.
Ăn bánh Trung thu truyền thống mà chỉ thấy nó ngọt quá hay ngọt vừa, nhân khô hay nhân ướt, vỏ mềm hay vỏ cứng, là mới chỉ “ăn” một loại đồ ăn, chứ chưa phải thưởng thức một món bánh đặc biệt của đêm Trung thu.
Chả phải vô cớ mà loại bánh dành cho lúc thư thái ngồi bên tách trà, ngắm trăng trôi dần dần lên đến đỉnh trời… lại có đến cả chục thứ nhân như thế, mặn, ngọt đủ cả.
Chả phải vô cớ mà bánh Trung thu lại phải làm rất ngọt. Phải làm cho thật ngọt để có thể bảo quản được ở nhiệt độ thường mà không cần đến chất bảo quản, khi bên trong nó là thịt mỡ, là mứt, là “thập cẩm” thứ mùi, thứ vị.
Phải làm thật ngọt để chỉ nhấm nháp từng chút, chút chút rất ít thôi. Có thế, mới cảm được mùi của những cánh rừng Tây Bắc thoang thoảng hương hồi quế, ngẫm thêm chút, lại thấy hương sen dịu dàng thanh tao và khi vẫn còn đang ngây ngất với hương sen thì lại bắt gặp ngay mùi thơm dân dã của vừng rang, đâu đó là mùi lá chanh thanh sạch…
Có ăn từng chút mới cảm nhận được miếng mứt bí giòn sần sật, những tiếng reo tí tách vui như Tết trong miệng của hạt dưa, cảm nhận vị béo của hạt điều, vị bùi của hạt sen, cái ngầy ngậy của miếng thịt mỡ. Thưởng thức một miếng bánh trung thu truyền thống, như đang được dùng tiệc ngọt với bánh, mứt, hạt khô và cũng như được ăn một mâm cỗ thịnh soạn với vị mằn mặn của lạp sườn, của tương đen, của thịt mỡ…
Mâm cỗ trông Trăng được mong chờ với bao trẻ nhỏ xưa. (Ảnh: BQL Phố cổ) |
Để làm được một chiếc bánh Trung thu như thế cũng không đơn giản. Nước đường để trộn vỏ bánh phải đun trước ít nhất 1 tháng. Nhiều nguyên liệu phải chuẩn bị trước cả tuần. Như lạp sườn: phải hong nắng vài ngày mới đủ thời gian lên men. Thịt mỡ gáy, nạc vai thái hạt lựu, trộn với chút ngũ vị hương, chút gia vị, đường, nhồi vào đoạn lòng đã chuẩn bị sẵn, phơi nắng cho đến khi đỏ au… Một phần mỡ gáy nữa cũng đem thái hạt lựu, luộc vừa chín, xóc đường, hong gió, hong nắng vài ngày đến khi trong veo. Mứt bí, mứt hạt sen cũng mất cả ngày trời để luộc, để ngâm đường, tự tay sên… Hạt vừng đãi sạch bụi bẩn, phơi khô, rang vàng,… Lá chanh thái chỉ, hạt điều lột vỏ, cắt thành hạt lựu. Tỉ mẩn nhất là khâu ngồi cắt từng thứ thành những “hạt lựu” đều nhau, làm sao ở mức “vừa đủ tinh tế”, mà cũng không nhỏ quá dễ lẫn vị…
Đến khâu nướng bánh cũng là cả kỳ công. Bánh không được nướng một lần lửa như những loại bánh khác, mà phải trải qua đủ 3 lần qua lửa. Giữa mỗi lần nướng, lại quết trứng để bánh được bóng bẩy.
Thưởng thức một miếng bánh trung thu, chiêu thêm một ngụm chè, vị ngọt gắt giảm đi, chỉ còn dư vị ngọt hậu trong cuống họng, trong cái se se của trăng thu. Như bao năm rồi vẫn thế, những khoảng lặng của cuộc sống.
Chỉ tiếc, bọn trẻ con bây giờ hờ hững với bánh Trung thu. Nó chẳng như ngày xưa, cái thời bố mẹ toát mồ hôi mới được mua cặp bánh cứng như đá từ cửa hàng mậu dịch. Cặp bánh gói trong giấy nến tươm mỡ, để trên bàn thờ cúng các cụ, rồi lại bày xuống mâm cúng ông tiến sỹ, trong nỗi thèm khát đến… rớt nước bọt của trẻ.