Chính sách dịch vụ môi trường rừng giúp đồng bào dân tộc thiểu số bám bản, thoát nghèo, phát triển rừng bền vững

Chính sách dịch vụ môi trường rừng giúp đồng bào dân tộc thiểu số bám bản, thoát nghèo, phát triển rừng bền vững
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, trong đó có chính sách chi trả khoản tiền dịch vụ môi trường rừng là nguồn thu nhập đáng kể, ổn định đã giúp các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trồng rừng yên tâm bám bản, giữ rừng, góp xóa đói giảm nghèo.

Người dân yên tâm bám bản, trồng và phát triển rừng

Yên Bái là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc, có diện tích tự nhiên 689.267ha, diện tích quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp đến năm 2025 là 487.681ha. Nhờ duy trì hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng, tỷ lệ che phủ rừng nằm trong tốp cao của cả nước.

Chi cục Kiểm lâm tỉnh cùng cán bộ kiểm lâm huyện Yên Bình khảo sát năng suất rừng trồng.Chi cục Kiểm lâm tỉnh cùng cán bộ kiểm lâm huyện Yên Bình khảo sát năng suất rừng trồng.

Trước đây, gia đình ông Giàng A Chua (ở thôn Khấu Ly, xã Bản Mù, huyện Mù Cang Chải) nằm trong danh sách hộ nghèo của địa phương. Nhà đông người, trong khi nguồn thu nhập chính lại chỉ trông vào ruộng nương trồng lúa nên cuộc sống của gia đình ông rất khó khăn. Thậm chí, có thời điểm phải chạy ăn từng bữa, cũng vì thế mà thường xuyên phải nghỉ học để phụ giúp bố mẹ.

Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, cuộc sống của gia đình ông đã sang trang mới khi bắt đầu được nhận hàng chục triệu đồng mỗi năm từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng trên diện tích rừng nhà nước giao khoán trông coi.

“Hiện mỗi năm gia đình nhận hàng chục triệu tiền dịch vụ môi trường rừng từ hơn 20 ha rừng tự nhiên; 7,5 ha rừng cây gỗ lớn. Đây là một nguồn thu nhập ổn định giúp gia đình có thêm nguồn vốn cho chăn nuôi, trồng trọt, mua sắm nhiều vật dụng trong nhà, nuôi con cái ăn học.

Giờ đây chăm sóc, bảo vệ và trồng rừng là nghề chính của cả gia đình, cuộc sống ổn định hơn, nên gia đình ông rất yên tâm gắn bó với rừng và bảo vệ rừng”, ông Giàng A Chua phấn khởi cho biết.

Về xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên, dừng bước bên một cây gỗ dổi cỡ 3 người ôm vươn cao lên bầu trời, anh Trần Văn Son (Tổ trưởng bảo vệ rừng bản Nả, xã Việt Hồng) cho biết, hiện tổ đang quản lý 457ha rừng phòng hộ đầu nguồn, các loại cây gỗ bản địa như dổi, de, sến, táu nhờ quản lý chặt chẽ nên phát triển tốt.

Khoản tiền từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là nguồn thu nhập đáng kể, ổn định lâu dài đã giúp các hộ trồng rừng cải thiện cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo.Khoản tiền từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là nguồn thu nhập đáng kể, ổn định lâu dài đã giúp các hộ trồng rừng cải thiện cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Cách quản lý của tổ là phân chia từng lô, thửa rừng cho 17 thành viên tuần tra theo định kỳ và đột xuất. Từ tiền khoán bảo vệ rừng và tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, bình quân 300 nghìn đồng/ha/năm, tổ bảo vệ rừng bản Nả hoạt động hiệu quả, 7 năm liên tục không để xảy ra cháy rừng, không có vụ việc nào liên quan đến hủy hoại rừng.

Để giữ vững tỷ lệ che phủ rừng đạt 70%, Hạt Kiểm lâm huyện Trấn Yên đã tham mưu cho UBND các xã, tiến hành tổ chức Hội nghị thành lập các Ban quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn, bản tiến hành ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng đối với các cộng đồng dân cư nhận khoán tại các xã.

Đến nay, Trấn Yên đã thành lập 45 cộng đồng dân cư thôn bản tại các xã, thực hiện khoán bảo vệ rừng tự nhiên phòng hộ và tự nhiên sản xuất với diện tích hơn 9.371ha, tại 14 xã với 579 thành viên.

Cuối năm 2022, Hạt kiểm lâm huyện đã nghiệm thu diện tích rừng tự nhiên khoán bảo vệ 9.359,98ha để thực hiện chi trả khoán bảo vệ rừng đến 44 ban quản lý cộng đồng ở 14 xã, bảo đảm đúng, đủ, kịp thời, góp phần giúp người dân có thu nhập chính đáng từ rừng.

Lan tỏa chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng

Đến nay, toàn tỉnh Yên Bái có trên 325 nghìn ha rừng và đất lâm nghiệp thuộc diện cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Loại rừng này chia theo 4 lưu vực sông, suối chính của địa bàn 8 huyện, thị trải rộng trên 100 xã, phường, thị trấn. Hiện có trên 53.000 hộ gia đình được hưởng tiền dịch vụ môi trường rừng thông qua việc tham gia bảo vệ và phát triển rừng.

Trồng rừng không chỉ xóa đói, giảm nghèo mà còn giúp người dân làm giàu, nhiều gia đình có thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm không còn là chuyện hiếm ở tỉnh miền núi, đông đồng bào dân tộc thiểu số ở Yên Bái.Trồng rừng không chỉ xóa đói, giảm nghèo mà còn giúp người dân làm giàu, nhiều gia đình có thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm không còn là chuyện hiếm ở tỉnh miền núi, đông đồng bào dân tộc thiểu số ở Yên Bái.

Tùy theo vị trí và tính chất của từng khu rừng mà đơn giá dịch vụ môi trường rừng khác nhau, dao động từ 600.000 đồng đến 800.000 đồng/ha/năm. Đây là nguồn thu nhập đáng kể, ổn định lâu dài đã giúp các hộ trồng rừng cải thiện cuộc sống, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Không chỉ giúp cho người dân có thêm thu nhập, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Yên Bái còn lan tỏa “năng lượng” tích cực trong cộng đồng.

Ông Giàng A Phong (xã Dế Xu Phình, huyện Mù Cang Chải) chia sẻ: Trước đây, cuộc sống còn khó khăn, ông, cũng như nhiều người khác đã từng vào rừng chặt cây lấy gỗ, củi về đun; thậm chí phá rừng làm nương.

“Bây giờ khác rồi, rừng được coi như tài sản của gia đình, không có rừng hoặc rừng nghèo là không được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng. Mỗi người trong bản đều phải có trách nhiệm giữ rừng, khi phát hiện khu vực nào có hiện tượng xâm hại, lấn chiếm rừng thì thông báo kịp thời với cán bộ kiểm lâm xử lý và ngăn chặn kịp thời”, ông Giàng A Phong nói.

Cùng với việc nâng cao ý thưc giữ rừng, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cũng động viên người dân chung tay xây dựng nông thôn mới; cùng nhau đóng góp làm đường, làm nhà văn hóa thôn, sân chơi thể thao thôn, xây bể chứa rác thải công cộng… Đồng thời cùng nhau đóng góp để duy tu, bảo vệ, sử dụng các công trình đó.

Từ thực tế cho thấy, chính sách dịch vụ môi trường rừng còn đang tác động không nhỏ, làm tăng nhanh diện tích rừng và độ che phủ trên toàn tỉnh Yên Bái. Diện tích đất có rừng toàn tỉnh, đến nay là 433.967,4ha, trong đó rừng tự nhiên 214.796,9ha; rừng trồng 219.170,5ha; tỷ lệ che phủ của rừng đạt 63%.

Hằng năm, hàng vạn người dân trong tỉnh có thu nhập hơn 100 tỷ đồng từ hưởng dịch vụ môi trường rừng. Chính sách dịch vụ môi trường rừng đã mang lại quyền lợi cho người dân, từ đó làm thay đổi ý thức người dân từ chặt phá, khai thác rừng sang trồng và tu bổ rừng, người dân có trách nhiệm phát triển rừng bền vững gắn với đa dạng sinh học.

Thực hiện chủ trương quản lý, bảo vệ và phát triển rừng tận gốc, hàng chục nghìn thôn, bản được ngành kiểm lâm giúp đỡ xây dựng và thực hiện tốt quy ước, hương ước bảo vệ rừng. Yên Bái phấn đấu trở thành trung tâm chế biến gỗ rừng trồng công nghệ cao của vùng Trung du và miền núi phía bắc.

Đọc thêm

Nậm Pồ chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số

Các chính sách vùng đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai tích cực đã góp phần nâng cao đời sống người dân.
(PLVN) - Những năm qua, huyện Nậm Pồ (tỉnh Điện Biên) thường xuyên đẩy mạnh thực hiện các chính sách chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên, từng bước xóa đói giảm nghèo, cuộc sống nâng cao rõ rệt.

Cao Bằng ngăn chặn tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Trường Trung học Phổ thông Lý Bôn (Bảo Lâm) tổ chức Hội thi tuyên truyền giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Thời gian qua, tỉnh Cao Bằng đã và đang tiếp tục phát huy hiệu quả chính sách, tăng cường công tác tuyên truyền, thực hiện hiệu quả Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số”, nhằm hướng tới mục tiêu đến năm 2025 ngăn chặn thành công tình trạng tảo hôn trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Quảng Ninh sơ kết 3 năm về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo

Quang cảnh hội nghị.
(PLVN) -Ngày 10/4, tại TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 06, “về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030” và đánh giá kết quả 3 năm thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) trên địa bàn tỉnh.

Hiệu quả trong công tác PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số tại Móng Cái

Hiệu quả trong công tác PBGDPL cho đồng bào dân tộc thiểu số tại Móng Cái
(PLVN) - Trong những năm qua, TP Móng Cái (Quảng Ninh) luôn xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Sau 10 năm triển khai cho đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương đã gặt hái được những thành công và để thấy rõ những hiệu quả của công tác mang lại Báo Pháp luật Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Hoàng Bá Nam, Tỉnh ủy viên, Bí thư Thành ủy Móng Cái về vấn đề này.

Bộ Công an trao tặng Công trình liên hợp cho Trường PTDT bán trú Tiểu học Pa Tần, Sìn Hồ, Lai Châu

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an tháo băng gắn biển khánh thành nhà ở bán trú cho học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Pa Tần.
(PLVN) -  Chiều ngày 06/01/2024, Bộ Công an đã tổ chức Lễ trao tặng Công trình liên hợp Nhà ở, Nhà ăn, Nhà phụ trợ, phòng máy vi tính, thư viện cho Trường PTDT (Phổ thông dân tộc) bán trú Tiểu học Pa Tần, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an dự và phát biểu tại buổi lễ.

Các cấp, các ngành, địa phương phải dành sự quan tâm đúng mức đến công tác dân tộc

Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang chia sẻ, công tác dân tộc là nhiệm vụ khó khăn nên các Bộ, ngành địa phương phải quan tâm đến công tác này bằng cả tấm lòng. (Ảnh: VGP/Hải Minh)
(PLVN) - Dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác dân tộc năm 2023 và triển khai nhiệm vụ năm 2024, do Ủy ban Dân tộc tổ chức chiều 2/1, Phó Thủ tướng đề nghị các cấp, các ngành, địa phương phải dành sự quan tâm đúng mức đến công tác dân tộc; linh hoạt trong việc triển khai các chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi phù hợp với văn hoá, phong tục, tập quán, điều kiện cụ thể của từng địa bàn, từng dân tộc, tránh tư duy máy móc.

Hòa Bình: Phát huy vai trò người có uy tín trong đảm bảo an ninh trật tự

Những người có uy tín như ông Sùng A Dếnh góp phần giúp các lực lượng, đặc biệt là lực lượng Công an xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở cơ sở.
(PLVN) - Với kinh nghiệm, hiểu biết về thực tế tại địa phương, trong những năm qua, những người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở tỉnh Hòa Bình đã tích cực tuyên truyền, vận động bà con thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, đóng góp hiệu quả vào công tác đảm bảo an ninh trật tự ở cơ sở.