Một thời vang bóng
Chẳng ai nhớ chính xác làng nghề có từ thời điểm nào, nhưng chắc chắn phải cả trăm năm nay. Nhiều người dân kể rằng, người đưa nghề đan đát về làng là ông Hòa Tích, vốn quê ở Trường Cửu, Nhơn Lộc. Hàng ngày, ông Tích cần mẫn với việc vót tre, đan tre, lận nứt rồi tạo nên những chiếc nong, nia, dần, sàng… phục vụ bà con.
Thấy sự hữu ích của sản phẩm, nhiều người dân trong làng tìm đến học nghề. Sản phẩm tiêu thụ tốt, nghề đan đát ngày một nhân rộng. Những lúc nông nhàn, bà con lại đan đát để kiếm thêm thu nhập.
Cây tre gần gũi với người nông dân bấy lâu, qua đôi tay khéo léo đã hóa thân thành sản phẩm mộc mạc, chân chất hồn quê, làm nên thương hiệu làng nghề Quan Quan nức tiếng. Có giai đoạn sản xuất phát triển mạnh đến nỗi làng quê nổi tiếng nhiều tre trúc cũng thiếu nguyên liệu, người dân phải lặn lội sang các xã lân cận mua tre về làm để kịp hàng giao cho khách.
Bên ấm trà hoài niệm, ông Lê Hồng Kính (57 tuổi, thôn Quang Quan) chia sẻ ông đã gắn bó với nghề đan đát hơn bốn mươi năm nay. Từ thời trẻ nhỏ, ông đã được ba và ông nội truyền nghề. Trong ký ức của ông, thuở xưa nhà nhà đều đan đát, thịnh nhất là những thập niên bảy mươi, tám mươi thế kỷ trước. Cả làng trên dưới sáu mươi hộ đều theo nghề.
Vào những ngày chợ phiên, mới 2 giờ sáng đã rộn rã cả làng, những ngọn đèn dầu soi đường cho đoàn người kẻ gánh, người chở xe chất đầy những nơm, nia, dần, sàng… ra chợ Bình Định cách đó tầm năm cây số để bán. “Sản phẩm mang đi bao nhiêu là tiêu thụ sạch. Không có chuyện mang về”, ông Kính hồi tưởng lại một thời vang bóng của làng nghề.
Ông Kính kể tôi nghe về giai thoại người đàn ông mà dân làng hay gọi là ông Xổm, thuộc thế hệ đầu của làng nghề giỏi làm nia, nhưng vì muốn độc tài kỹ thuật làm nia của mình nên giấu nghề, không cho ai học.
Có lần, ông Xổm sợ người ta thấy nghề nên mang nia lên lẫm (kho chứa thóc-PV) lận. Lận xong mới thấy nia có kích thước lớn hơn cánh cửa nhỏ của lẫm nên loay hoay mãi không mang ra được. Giai thoại hài tiếu này cũng phần nào cho thấy sự cạnh tranh và độ sôi động của làng nghề đan đát khi xưa.
Tiếp xúc với những người dân trong làng nghề đan đát Quang Quan, tôi mới cảm nhận rõ hơn những nhọc nhằn của nghề này. Ví như, để làm ra một cái nơm, phải mất nhiều giai đoạn như chặt tre, vót vành, lên bện, thắt con rít, chạy quả thị, quấn vành... Cũng phải mất cả ngày mới xong một sản phẩm. Làm nơm đã năm cơm bảy cháo, làm nia còn công phu hơn nhiều.
Ông Nguyễn Văn Nhâm (bên trái) cùng biểu diễn nghề đan đát trong Festival Tây Sơn – Bình Định năm 2008 |
Ông Nguyễn Văn Nhâm (57 tuổi, thôn Quang Quan), người gắn bó với nghề đan đát từ thuở ấu thơ và từng vinh dự đại diện cho làng nghề đi biểu diễn tại Hội Làng nghề truyền thống và Ẩm thực trong Festival Tây Sơn - Bình Định 2008, kể:
Để hoàn thành một cái nia phải chọn loại tre nhứt, loại thân to và già, mắt nhỏ, láng đẹp. Sau đó chặt khúc ra lấy thanh nan tre, chuốt nan mỏng và láng. Một cái nia mất khoảng trên dưới 300 nan cật và ruột.
Vừa nói, ông Nhâm vừa lấy chiếc nia do chính ông làm cách đây hơn mười năm đưa tôi xem. Những vành nan mịn láng, thẳng đều, đan bện vào nhau uyển chuyển, vừa mềm mại vừa khỏe khoắn.
Ông Nhâm còn giới thiệu những sản phẩm bằng tre mà gia đình ông làm được như nơm, rổ, rá, quạt lá sen… một thời được khách ưa chuộng. Những đêm chong đèn đan đát đến khuya, những ngày tham gia Hội làng nghề truyền thống và ẩm thực cứ lần lượt hiện về trong lời tâm sự của người “nghệ nhân nông dân” lớn tuổi, chuyện như vừa hôm qua.
Kết lại những lời giới thiệu về làng nghề, những kỷ niệm vui với cây tre quê hương là ánh nhìn đăm chiêu hoang hoải và câu nói buồn so của người đàn ông gần sáu mươi tuổi: “Cái thời vàng son ấy, đã xa. Nghề đan đát nay không còn được như xưa nữa”…
Hoang hoải làng nghề trăm năm…
Những lần trở lại làng nghề đan đát Quang Quan gần đây, tôi cảm nhận rõ rệt sự hoang vắng của một làng nghề trăm năm từng một thời vang bóng. Số người theo nghề chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay. Giờ đây, gắn bó với nghề chỉ còn những người trung niên, lớn tuổi. Thế hệ trẻ thờ ơ với nghề đan đát truyền thống.
“Thanh niên trong làng đi làm xa hoặc vào làm ở các cơ quan, xí nghiệp. Không có ai theo nghề này nữa”, bà Lê Thị Bông (57 tuổi, ở Quang Quan), một trong số ít những người còn giữ nghề đan đát, cho hay.
Sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ, khó cạnh tranh với các mặt hàng công nghiệp làm bằng nhựa, kim loại. Công đan đát nhọc nhằn nhưng giá thành sản phẩm lại quá thấp: nơm bán có 50 ngàn, nia bán trên dưới 100 ngàn… Quá nhiều những nguyên nhân lý giải sự mai một dần dà làng nghề đan đát.
Anh Nguyễn Văn Cảnh (50 tuổi, ở thôn Quang Quan), lắc đầu khi nói về nghề đan đát truyền thống: “Giờ mấy ai còn đan đát nữa đâu. Thu nhập quá thấp nên mọi người không còn mấy mặn mà với nó nữa”. Cũng nhiều năm nay, những khi nông nhàn, anh Cảnh chuyển sang làm công việc khác, không còn gắn bó với đan đát như trước. Lâu lâu anh mới chặt tre, chẻ vành làm sản phẩm cho gia đình dùng, cũng là để đỡ “nhớ nghề”.
Ông Nhâm giới thiệu chiếc nia do chính ông làm cách đây hơn 10 năm |
Tôi bị ám ảnh đôi mắt buồn tiếc nuối của ông Nhâm, khi tôi hỏi rằng ông còn làm sản phẩm đan đát bán cho người ta không. Ông tâm sự rằng từ sau Festival Tây Sơn - Bình Định 2008, ông ít đan đát, có làm cũng chỉ đan vài sản phẩm cho gia đình dùng. Ông đã chuyển sang phụ hồ và đi đổ bê tông để sinh kế. Nhìn dáng hình kham khổ của người nghệ nhân đan đát một thời và câu chuyện buồn khi nói về tương lai của làng nghề đan đát mà xót lòng xót dạ.
Làng nghề đan đát sẽ đi về đâu? Đó là câu hỏi cứ ám bủa lấy tôi trong từng bước chân tìm hiểu về làng nghề. Có một vài hy vọng lóe lên đối với làng nghề đan đát khi tôi nghe câu chuyện của vợ chồng ông Kính và một vài hộ trong làng làm các sản phẩm đan đát bằng tre ngoài cung ứng cho nông nghiệp còn phục vụ nhu cầu trang trí.
“Tôi đang làm 50 cái nơm theo đơn đặt hàng của khách trong Khánh Hòa”, ông Kính tâm sự.
Thỉnh thoảng, tôi vẫn thấy các quán cà phê treo những chiếc nơm và các sản phẩm làm từ tre. Tôi đồ rằng, người ta muốn tìm cái gì là lạ giữa cuộc sống đô thị vội vã, hay chút hoài niệm quê nhà với cái đẹp quê dân dã, mộc mạc. Tuy nhiên, chúng tôi đều ngầm hiểu rằng, những đơn đặt hàng nhỏ lẻ kia vẫn chưa đủ mạnh để tạo cú hích “cứu” lấy làng nghề.
Tôi chợt nhớ lại câu nói của ông Kính mà xa xót. Ông bảo: “Rồi đây, không biết làng nghề này sẽ đi về đâu, khi lớp già chúng tôi không còn nữa”.