Bệnh viện quân y 103: Xu hướng ghép phổi tại Việt Nam trong tương lai

Dự đoán xu hướng ghép phổi từ người cho sống sẽ phổ biến trong tương lai (Ảnh minh họa).
Dự đoán xu hướng ghép phổi từ người cho sống sẽ phổ biến trong tương lai (Ảnh minh họa).
(PLO) - Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng tiếp cận kĩ thuật ghép phổi dựa trên nền tảng những ca ghép thận, tim đã thành công. Từ thực tế này, các chuyên gia dự đoán xu hướng ghép phổi sẽ “lên ngôi” trong tương lai.

Nội soi phế quản (NSPQ) là thủ thuật dùng một ống và các phụ kiện như kìm sinh thiết, kìm chọc hút, đầu dò định vị mà qua đó có thể nhìn và đánh giá phổi cũng như đường hô hấp của bệnh nhân bao gồm thanh quản, dây thanh âm, khí quản và các nhánh phế quản.

Ống NSPQ cứng ra đời từ năm 1897, đến năm 1966 thế giới đưa vào ứng dụng loại ống mềm với nhiều ưu điểm như đi tới những vị trí xa hơn dưới lồng ngực, ít gây đau. Ban đầu các ống nội soi có đường kính lớn nhưng qua thời gian được cải tiến nhỏ dần. Đặc biệt các nhà khoa học đã gắn thêm camera vào đầu dò ống nội soi giúp hình ảnh chẩn đoán rõ nét hơn.

Ngày nay nhiều nước tiên tiến ứng dụng rộng rãi ống NSPQ định vị từ trường dựa trên nguyên lý kết hợp ống soi đầu siêu nhỏ và hệ thống GPS cùng phần mềm chuyên dụng định vị từ trường, máy chụp cắt lớp dẫn đường đầu dò định vị đến vị trí tổn thương và lấy mẫu bệnh phẩm.

Đầu ống nội soi thế hệ mới còn được thiết kế thêm trục xoay giúp đầu dò xoay 360 độ và gắn kèm thiết bị sinh thiết giúp chẩn đoán. Nhờ đó bác sĩ có thể lấy bệnh phẩm dễ dàng mà vẫn đảm bảo tính chính xác. Công nghệ mới với tia laze còn giúp phát hiện ra những tổn thương tiền ung thư, kĩ thuật nội soi 3D đang dần thay thế hình ảnh 2D.

Những tiến bộ trong NSPQ giúp khảo sát chính xác các tổn thương, cũng như phát hiện sớm những tế bào tiền ung thư. Từ đó có giải pháp can thiệp kịp thời, hiệu quả.

Tuy nhiên, những phương pháp NSPQ hiện đại vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam vì lý do giá thành cao.  

Tại Hội nghị khoa học, PGS.TS Tạ Bá Thắng, Phó Chủ nhiệm Khoa Lao và Bệnh phổi Bệnh viện Quân y 103, đại diện nhóm nghiên cứu đã đưa ra những dự báo về xu hướng ghép phổi ở Việt Nam trong tương lai.

Kĩ thuật ghép phổi trên thế giới phát triển như thế nào, thưa ông?

- Tình hình ghép phổi trên thế giới nói chung phát triển mạnh. Liệu pháp này áp dụng phổ biến với các bệnh nhân xơ hóa phổi, ung thư phổi, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Số ca ghép phổi liên tục tăng lên qua các năm, xu hướng ghép hai lá phổi dần phổ biến. Đồng thời độ tuổi trung bình của người nhận cũng như người cho tạng đều tăng. Ví dụ trước đây thường chỉ định người nhận dưới 55 tuổi nhưng đến nay độ tuổi tăng lên 60, có thể cao hơn. 

Về kết quả, thời gian sống thêm đối với bệnh nhân ghép phổi tùy theo từng giai đoạn bệnh lý, chỉ định ghép và từng loại bệnh. Ví dụ bệnh nhân xơ hóa phổi sau khi ghép phổi có tỷ lệ sống thêm 5 năm cao hơn người bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.

Hiện có hai hướng phát triển ghép phổi chia theo nguồn cho, đó là ghép phổi từ người sống chết não và ghép phổi từ người bình thường (hay còn gọi ghép thùy phổi từ người sống; ghép phổi từ người hiến tạng sống)

Số lượng các ca ghép phổi từ nguồn cho là người sống có tăng lên không?

- Số ca ghép phổi từ người cho sống tăng đáng kể. Theo thống kê, đến năm 2012 toàn cầu có khoảng 400 bệnh nhân được ghép phổi từ người cho sống, tập trung chủ yếu ở các nước Nhật, Brazil, Trung Quốc.

Ghép phổi từ người cho sống có ưu điểm gì?

Ghép thùy phổi từ người sống, trước tiên có ưu điểm là “dồi dào” nguồn cho. Hiện ở nhiều nước như Nhật Bản phát triển mạnh theo hướng này. Họ vận động bố mẹ, anh em, họ hàng cho thùy phổi để ghép cho người bệnh có quan hệ huyết thống.

Khoa học cũng chứng minh việc cắt bớt một thùy dưới không gây ảnh hưởng đến sức khỏe người cho tạng. Các chuyên gia y tế khuyến cáo lấy nguồn cho những người trong độ tuổi từ 20-60 là thích hợp nhất.  

Khi nguồn cho là người sống, sẽ cho phép chủ động tiến hành những xét nghiệm, chủ động thời gian phẫu thuật. Việt Nam nằm trong nhóm nước mà việc vận động nguồn cho từ người sống chết não tương đối khó, do đó phát triển nguồn cho từ người sống sẽ thuận lợi hơn.

Ưu điểm nữa, ghép phổi từ người cho sống giúp rút ngắn thời gian bệnh nhân thiếu máu trong phẫu thuật. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy hiện tượng rối loạn chức năng mảnh ghép, tỷ lệ nhiễm trùng cũng ít hơn đối với người ghép phổi từ người cho chết não.

Phương pháp này có nhược điểm gì?

- Kĩ thuật ghép phổi từ người sống tương đối phức tạp hơn. Ghép phổi lấy nguồn từ người cho sống có hai kỹ thuật chính: Lấy một phân thùy dưới từ người cho ghép vào một lá phổi người nhận. Thứ hai là lấy 2 thùy phổi từ hai người cho khác nhau ghép vào hai lá phổi người nhận.

Có những nguy cơ nào sau khi ghép phổi?

- Dù quá trình ghép phổi tuân thủ các nguyên tắc thì vẫn có nguy cơ thải ghép, rối loạn chức năng phổi ghép, có thể dẫn đến suy hô hấp và tử vong. Triệu chứng chủ yếu là khó thở, suy hô hấp và chẩn đoán qua phim X-Quang.

Những nguy cơ trên tùy thuộc vào yếu tố người cho, người nhận và quá trình phẫu thuật. Do đó, việc điều trị dự phòng rất quan trọng. Cần chú ý trường hợp thải ghép qua trung gian kháng thể có điểm khác như sau: Trường hợp nguồn cho là người sống chỉ biểu hiện triệu chứng một bên phổi. Còn nguồn cho là người sống chết não thì biểu hiện triệu chứng trên cả hai lá phổi.

Điều quan trọng nhất trong kĩ thuật ghép phổi là gì?

- Đó là đánh giá phù hợp kích thước, chức năng tạng giữa người cho và người nhận. Nếu ghép mảnh ghép lớn vào phổi trẻ em hoặc ngược lại sẽ gây ra hiện tượng tăng/giảm nhịp thở dẫn đến rối loạn chức năng phổi ghép. Hiện nay nhờ tiến bộ y học người ta có thể đo độ tương thích dựa vào tỷ lệ thùy dưới người cho và khoang phổi người nhận. Cùng với đó là so sánh, đối chiếu các chỉ số sức khỏe khác.

Xu hướng ghép phổi sắp tới trên thế giới cũng như ở Việt Nam như thế nào?

- Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, dự báo các chỉ định về người cho được mở rộng hơn, xu hướng ghép hai lá phổi phổ biến hơn. Riêng ở Việt Nam nguồn phổi ghép sẽ đa dạng. Vừa qua chúng ta đã ghép thành công một số bộ phận như: Thận, gan, tim. Đó là nền tảng để chúng ta tiến tới tiếp cận kĩ thuật ghép phổi.

Xin cảm ơn ông!

Đọc thêm

Những hiểm họa của đèn laser sân khấu với đôi mắt

Ảnh minh họa

(PLVN) - Hiện nay, đèn laser sân khấu ngày càng trở nên phổ biến trong các sự kiện giải trí do tạo hiệu ứng ánh sáng độc đáo. Song nếu tiếp xúc trực tiếp, quá lâu với loại ánh sáng này có thể gây ra những tổn thương, đặc biệt là thị lực.

PGS.TS Trần Đắc Phu khuyến cáo về virus HMPV

Ảnh minh hoạ: Ngọc Nga
(PLVN) -  “Đây là những loại virus bình thường, không phải loại nguy hiểm vì vậy người dân không nên quá hoang mang. Tuy nhiên, cũng cần chú ý phòng bệnh giống như các bệnh được hô hấp khác”, PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho hay.

Ngăn chặn nguy cơ dịch bệnh lây lan, bùng phát dịp Tết

Số ca mắc sởi gia tăng tại nhiều địa phương. (Bệnh nhi điều trị sởi tại Khoa Nhi, BV Thanh Nhàn - Ảnh: Hoài Giang)
(PLVN) - Tết cận kề, nhu cầu đi lại và giao lưu của người dân tăng cao, làm gia tăng nguy cơ lây lan, bùng phát dịch bệnh. Để đón một cái Tết an lành, việc chủ động phòng ngừa bệnh từ sớm, từ xa không chỉ là trách nhiệm của ngành Y tế mà còn là nghĩa vụ của mỗi người dân.

Tử vong do ngộ độc cá nóc

Tử vong do ngộ độc cá nóc
(PLVN) - Chiều 6/1, UBND xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận xác nhận một vụ ngộ độc nặng do ăn cá nóc xảy ra trên địa bàn, khiến một người tử vong và bốn người khác phải nhập viện điều trị .

Nỗi lo ngại toàn cầu từ Virus HMPV ở Trung Quốc sau 5 năm dịch COVID-19?

Nỗi lo ngại toàn cầu từ Virus HMPV ở Trung Quốc sau 5 năm dịch COVID-19?

(PLVN) - Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc gần đây đã báo cáo sự gia tăng các ca bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, bao gồm cả HMPV, vào mùa đông. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chưa coi đây là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu, nhưng sự gia tăng ca bệnh đã thúc đẩy các cơ quan chức năng tăng cường hệ thống giám sát.

Khi đổi mới sáng tạo thúc đẩy phát triển ngành Y tế

Các bạn trẻ tham quan Triển lãm giới thiệu thành tựu công nghệ ngành Y tế năm 2024. (Ảnh: MOST)
(PLVN) - Tiến bộ trong công nghệ sinh học và chuyển đổi số không chỉ hỗ trợ việc nghiên cứu, phát triển thuốc, vaccine, mà còn giúp cải thiện việc chẩn đoán, điều trị bệnh, cũng như phát triển các phương pháp điều trị tiên tiến, nâng cao chất lượng sống cho người dân.