Vấn đề này nếu không được giải quyết dứt điểm và hợp lý có thể sẽ trở thành rào cản, thậm chí phá vỡ những nỗ lực tiếp tục sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty lâm nghiệp (CTLN).
Lấn chiếm đất rừng diễn ra hàng ngày
Ông Vũ Long – Hội Khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam lưu ý, không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các CTLN về tình trạng gia tăng mâu thuẫn này khi bản thân người dân cũng có nhiều hoạt động lấn chiếm, sử dụng diện tích đất khoán không đúng mục đích để đáp ứng sự gia tăng dân số, nhu cầu cần có tư liệu sản xuất, nhu cầu cải thiện đời sống vật chất trong quá trình phát triển...
Theo ông Giàng A Chu – Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, việc thiếu cơ chế, chính sách thanh lý tài sản trên đất rừng đã khoán khiến việc thu hồi đất để giao cho địa phương trở nên bế tắc và “om” những tranh chấp giữa người dân và CTLN, có tình trạng “thu hồi đất rồi nhưng không giao được cho ai nên phải hợp lý hóa cho những người đang lấn chiếm”.
Tình trạng lấn chiếm đất rừng diễn ra hàng ngày, có tổ chức đến mức có cán bộ xã lưu ý “thông tin về diện tích đất rừng bị lấn chiếm chỉ có giá trị trong 24 giờ là thay đổi” nhưng các CTLN chỉ báo cáo về diện tích đất rừng bị tranh chấp/lấn chiếm “giảm đến 20%” so với thực tiễn, vì “sợ bị khiển trách” nên việc giải quyết không thể dứt điểm.
Bên cạnh đó, việc chưa xác định được ranh giới đất giữa CTLN và người dân nhưng đã áp dụng hình thức quản lý hành chính là giao sổ đỏ cho CTLN đã tiềm ẩn nhiều nguy cơ, xung đột xã hội mới, có thể trầm trọng hơn trước đây.
Chỉ giao khoán đất rừng cho “đại gia”?
Khảo sát phục vụ cho hoạt động giám sát của Quốc hội cho thấy, thực chất đất đai được thu hồi, bàn giao giữa CTLN và chính quyền địa phương cũng mới chỉ thực hiện trên giấy tờ, sổ sách, chưa rà soát trên thực địa; trong khi đó UBND cấp xã không có kinh phí xây dựng phương án giao đất, giao rừng cho các đối tượng nên đất bị bỏ hoang hoá, rừng bị chặt phá, dân lấn chiếm, xâm canh như ở vùng Tây Nguyên.
Diện tích đất CTLN giao về cho địa phương, có nơi quản lý, sử dụng kém hiệu quả, có nơi rừng đã bị chặt phá vì toàn bộ diện tích đất lâm trường trả lại là đất đồi núi, xa khu dân cư hoặc rừng tự nhiên nghèo kiệt, không phù hợp với phát triển sản xuất của dân, dân không muốn nhận như ở Tây Nguyên, Quảng Bình.
Tuy nhiên, GS.Đặng Hùng Võ băn khoăn về thực trạng không giao khoán đất rừng cho dân nhưng lại giao khoán cho “đại gia”. Nên theo ông, bên cạnh việc giải quyết nhu cầu đất hợp lý cho đồng bào dân tộc miền núi thực sự chưa có hoặc thiếu đất thì vấn đề tập trung đất với quy mô lớn cũng cần được chú trọng ở các CTLN.
Do đó, để giải quyết được các mâu thuẫn về tranh chấp, lấn chiếm đất đai giữa nông lâm trường (NLT), CTLN, các chuyên gia kiến nghị chính quyền địa phương và các bên liên quan phải thực sự vào cuộc và cần có sự tham gia của cá nhân/tổ chức đóng vai trò hòa giải.
Đặc biệt, cần có cơ chế để “bắt buộc” NLT quốc doanh hợp tác với người dân và các bên liên quan tham gia rà soát, đánh giá đất đai trước khi xây đề án về đổi mới NLT để tránh tình trạng NLT quốc doanh tự rà soát. Đồng thời, Nhà nước cần đầu tư kinh phí để thực hiện việc rà soát, đo đạc để thu hồi đất, tổ chức, hỗ trợ việc giao đất thực tế cho người dân, nhất là ở những địa phương còn khó khăn.
Hiện cả nước có 319 doanh nghiệp nông, lâm nghiệp đã được sắp xếp lại, quản lý và sử dụng gần 2,8 triệu hécta đất, trong đó có 116 đơn vị do Trung ương quản lý, 203 đơn vị do địa phương quản lý. Tại Hội thảo “thực trạng quản lý và sử dụng đất đai tại NLTQD – những bất cập và giải pháp” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Liên minh đất - rừng (FORLAND) tổ chức sáng qua (8/9), ông Phạm Quang Tú – Tổ chức
Oxfarm chỉ ra, tiến trình rà soát, sắp xếp, đổi mới và phát triển NLTQD diễn ra chậm chạp và gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc, đang phổ biến dạng “thay vỏ” nghĩa là các doanh nghiệp mới chỉ thực hiện được việc đổi tên chứ chưa có sự thay đổi căn bản về cơ chế quản lý và quản trị doanh nghiệp.