Thực hiện phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế thay mặt các cơ quan của Quốc hội đã trình bày báo cáo thẩm tra, đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, kết quả thực hiện những tháng đầu năm 2017.
Theo báo cáo thẩm tra, bên cạnh những kết quả đạt được kinh tế-xã hội vẫn đang gặp không ít khó khăn, thách thức lớn, doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể còn cao, đời sống người dân còn khó khăn, ô nhiễm môi trường xảy ra ở nhiều nơi nhưng khắc phục và cải thiện còn chậm, mất an toàn thực phẩm còn phổ biến gây bức xúc xã hội; trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp.
Để sớm khắc phục những tồn tại này, Ủy ban Kinh tế đề nghị báo cáo của Chính phủ cần phân tích, đánh giá cụ thể hơn về một số vấn đề như sau:
Tăng trưởng kinh tế cả năm 2016 đạt 6,21% thấp hơn so với kế hoạch đề ra, thấp hơn số đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 2 ước đạt 6,3-6,5% và cũng thấp hơn mức tăng 6,68% của năm 2015. Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế tại Kỳ họp thứ 2 cũng cho rằng, các yếu tố tác động để tốc độ tăng trưởng GDP tăng cao hơn là chưa chắc chắn và chưa được định lượng cụ thể và rất khó đạt được mức tăng 6,3-6,5% như Chính phủ báo cáo trước Quốc hội. Theo báo cáo, nguyên nhân khiến cho tốc độ tăng trưởng GDP không đạt kế hoạch đề ra, đó là: Sản xuất công nghiệp thấp hơn 2 năm trở lại đây và Các yếu tố về môi trường cũng là nguyên nhân khiến cho tăng trưởng GDP không đạt chỉ tiêu. Một số ý kiến cho rằng, nguyên nhân sâu xa và mang tính căn bản khiến cho GDP đạt thấp là do cơ cấu kinh tế chưa có chuyển biến mạnh, thiếu liên kết và thực lực doanh nghiệp trong nước yếu, chưa đủ sức cạnh tranh. Mặc dù Chính phủ, các cấp, ngành có các hành động cụ thể, quyết liệt theo tinh thần “kiến tạo” và phục vụ doanh nghiệp nhưng chưa xác định rõ định hướng trọng tâm trong điều kiện nguồn lực có hạn. Có ý kiến băn khoăn và đề nghị làm rõ tính xác thực của các số liệu khi hầu hết các chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi trường đều đạt trong khi đó chỉ tiêu GDP lại đạt thấp.
UBKT Quốc hội cũng nhìn nhận: Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 9%, tuy cao hơn so với số báo cáo tại Kỳ họp thứ 2 (ước tăng khoảng 6-7%) nhưng vẫn thấp hơn theo Nghị quyết của Quốc hội (tăng khoảng 10%). Có ý kiến cho rằng khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn thấp, phụ thuộc vào FDI, xuất khẩu chưa tận dụng được các cơ hội mở cửa thị trường từ Cộng đồng kinh tế ASEAN và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có hiệu lực.
Năm 2016 đã có 56 DNNN được phê duyệt phương án cổ phần hóa, đây là con số rất thấp so với trung bình 118 doanh nghiệp được cổ phần hóa mỗi năm trong giai đoạn 2011-2015. Có ý kiến đề nghị cần thực hiện quyết liệt hơn nữa Đề án tái cơ cấu DNNN thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa để sớm giải phóng nguồn lực của DNNN, nâng cao thực chất quản trị doanh nghiệp thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
Nhắc lại bài học từ sự cố môi trường của Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra tại 4 tỉnh miền Trung, báo cáo thẩm tra nhận định sự cố này đã những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài, đặt ra cho các cơ quan chức năng, các địa phương cần đặc biệt lưu ý tiêu chí bảo vệ môi trường trong lựa chọn các dự án đầu tư, kiên quyết không đánh đổi, cho phép đầu tư các dự án, các loại hình sản xuất ô nhiễm môi trường.
Liên quan đến vấn đề khí hậu, báo cáo nhận định: tác động của biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều hiện tượng thiên tai khó lường dẫn đến thiệt hại nặng nề về người và sản xuất nông, lâm và thủy sản. Theo ước tính tổng thiệt hại toàn ngành do thiên tai trong năm 2016 lên đến 38.981 tỷ đồng (tương đương hơn 1,7 tỷ USD) - đây là con số cao nhất từ trước tới nay. Nhiều ý kiến đề nghị cần có đánh giá kỹ, toàn diện để chủ động có giải pháp kịp thời ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là các giải pháp về nguồn lực.
Về năng suất lao động xã hội, UBKT nhận định năm 2016 ước đạt 84,5 triệu đồng/lao động (tương đương 3.853 USD/lao động) tăng 5,3% so với năm 2015 (3.660 USD/lao động) cho thấy tiếp tục có sự cải thiện đáng kể nhưng vẫn còn ở mức thấp so với các nước ASEAN. Nguyên nhân chủ yếu là do chất lượng đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu và chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong khu vực nông, lâm và thủy sản chiếm tỷ lệ cao (41,9%) là khu vực có năng suất lao động thấp.