Công bố tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm: Có tránh được gian dối?

Các trường thông báo tỉ lệ việc làm cao ngất để… chiêu sinh (Ảnh minh họa).
Các trường thông báo tỉ lệ việc làm cao ngất để… chiêu sinh (Ảnh minh họa).
(PLO) - Từ năm 2017, các trường phải công bố tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi ra trường mới được tuyển sinh. Vấn đề được đặt ra là ai sẽ thu thập, kiểm chứng thông tin khi mà hầu hết các trường, trong sự cạnh tranh gắt gao của mùa tuyển sinh đều rất dễ “làm đẹp” tỷ lệ có việc làm hấp dẫn…

“Làm đẹp” và cao ngất ngưởng

Trong quy chế tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2017, Bộ GD-ĐT nhấn mạnh, bắt đầu từ năm 2018, các trường bắt buộc phải công bố tổng chi phí để đào tạo một sinh viên/năm, tỷ lệ sinh viên chính quy có việc làm sau 12 tháng kể từ khi tốt nghiệp của 2 khóa gần nhất so với năm tuyển sinh (theo nhóm ngành).

Bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT) cho biết, việc công bố tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm tới đây sẽ là một trong những tiêu chí để đánh giá, phân loại, xếp hạng các cơ sở giáo dục ĐH. Đây cũng là căn cứ để thí sinh, phụ huynh và xã hội nhận diện và lựa chọn trường ĐH, CĐ nào đảm bảo chất lượng, tránh tình trạng đào tạo ra trường rồi thất nghiệp.

Bà Phụng cũng thừa nhận, mặc dù yêu cầu này đã được thực hiện từ năm 2009 trong quy định về 3 công khai nhưng rất nhiều trường thực hiện chưa nghiêm túc, có tình trạng thống kê cho có hoặc không công khai. Để siết chặt quy định này, năm nay, Bộ GD-ĐT cho biết Bộ sẽ có cơ quan kiểm tra độc lập những số liệu thống kê của các trường. Trường nào không công khai đầy đủ thông tin sẽ không được thông báo tuyển sinh.

Tuy vậy, việc thống kê chính xác, đầy đủ tỷ lệ này để công khai, theo các trường cũng là một việc không hề dễ dàng. Bởi thực tế, hầu hết các trường chỉ khảo sát  thời điểm sinh viên tốt nghiệp khoảng 3 tháng. Lúc này tỷ lệ có việc làm chiếm rất ít, hầu hết các em chỉ làm việc tạm thời, không đúng chuyên ngành đào tạo. Sau thời gian này rất khó để tiếp cận các em để khảo sát.

Trong khi đó, hầu hết các trường, trong sự cạnh tranh gắt gao mỗi mùa chiêu sinh, trên  các website của trường luôn là 100 sinh viên ra trường có việc làm. Nhưng con số đó luôn tỉ lệ nghịch với số sinh viên thất nghiệp, hoặc công việc bấp bênh. Đơn cử, có ý kiến cho rằng, chẳng hạn học xây dựng ra trường, đi các công trình theo thời vụ, hoặc làm thợ cũng được tính là… có việc làm.

Một chuyên gia giáo dục thẳng thắn cho rằng, rất nhiều trường ĐH nước ta đang đặt mục tiêu số lượng hơn chất lượng. Nhiều trường để thu hút sinh viên đông sẽ tìm cách “làm đẹp” số liệu sinh viên ra trường có việc làm. Nếu không kiểm soát được điều này, quy định công khai không có ý nghĩa gì. GS.TS Nguyễn Văn Minh - Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho rằng, hiện nay đang có thực trạng hầu như các trường có chuẩn đầu ra giống hệt nhau.

Cũng theo thầy Minh, điều này là không thể chấp nhận được và phải có cơ chế quản lý thật chặt chẽ để đảm bảo tính chính xác, minh bạch. Còn các cơ quan quản lý thì phải kiểm tra gắt gao vấn đề ba công khai này nhằm đảm bảo sự minh bạch và tránh gian dối. 

Đồng quan điểm, GS. TS Đặng Kim Vui – Giám đốc Đại học Thái Nguyên cũng cho rằng, số liệu 3 công khai trên trang web của các trường là rất đẹp, nhưng thực tế không phải như vậy. Theo GS Vui, đó là sự gian dối và các trường đang đánh lừa xã hội.

GS Nguyễn Quý Thanh - Giám đốc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục ĐHQG Hà Nội cũng thẳng thắn nhận định, khi công bố các số liệu 3 công khai hay tỉ lệ SV có việc làm, nhiều trường khai báo số liệu cao ngất ngưởng. Ông cũng cho rằng các trường đang công bố số liệu 3 công khai hay tỷ lệ sinh viên có việc làm cao hơn nhiều so với thực tế.

Tránh tác dụng ngược

Theo lộ trình kiểm định chất lượng (KĐCL) giáo dục vừa được Bộ GD-ĐT công bố, đến hết năm 2017, sẽ có 35% số cơ sở giáo dục ĐH và 10% số trường CĐ sư phạm được kiểm định. Mục tiêu đến năm 2020 là đánh giá ngoài xong vòng 1 đối với các cơ sở đào tạo, khoảng 10% số chương trình đào tạo được đánh giá trong nước và quốc tế. Bộ GD-ĐT cũng kỳ vọng sau 3 năm nữa sẽ thực hiện tốt và đi vào nền nếp việc công nhận/không công nhận đạt tiêu chuẩn và công khai kết quả KĐCL giáo dục, các điều kiện bảo đảm chất lượng của các cơ sở đào tạo cho xã hội biết và giám sát.

Theo ông Mai Văn Trinh - Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Bộ GD-ĐT, đến nay hầu hết các trường ĐH Việt Nam đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá, nhiều trường đã được đánh giá ngoài. Bên cạnh đánh giá nhà trường, nhiều chương trình đào tạo cũng được đánh giá theo chuẩn trong nước cũng như quốc tế. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ phục vụ việc bảo đảm chất lượng đã được chuẩn bị tương đối đầy đủ với hơn 700 người hoàn thành các khóa đào tạo kiểm định viên, trong số đó gần 240 người được cấp thẻ kiểm định viên, đủ điều kiện để tham gia đoàn đánh giá ngoài, đến đánh giá ở các trường ĐH.

Tuy nhiên, ông Mai Văn Trinh cho rằng cần thẳng thắn nhìn nhận hoạt động kiểm định chất lượng trong trường ĐH còn những bất cập, cần cố gắng hơn. Do xu hướng phát triển của xã hội, bộ tiêu chuẩn hiện hành đang bộc lộ nhiều bất cập, lạc hậu so với yêu cầu chung. Bên cạnh đó, nhận thức, chuyển biến của cán bộ, giảng viên, sinh viên các trường ĐH hiện nay chưa đồng đều, kéo theo chất lượng báo cáo tự đánh giá của nhà trường chưa đạt được yêu cầu mong muốn, có những trường tốt nhưng cũng có trường kém hơn.

Ông Mai Văn Trinh khẳng định bộ tiêu chí mới nhấn mạnh tới tính hệ thống bảo đảm chất lượng, cụ thể là hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong của nhà trường hoạt động thế nào để các điều kiện bảo đảm chất lượng phát huy hiệu quả, qua đó từng bước hình thành văn hóa chất lượng trong nhà trường.

Tuy nhiên, nhiều quan điểm lo ngại rằng mặc dù Bộ đã đưa ra chế tài cụ thể “nếu không công bố đúng sẽ dừng tuyển sinh”, nhưng để làm được điều này, Bộ GD-ĐT sẽ không phải là đơn vị kiểm tra và không can thiệp vào kết quả của người được giao kiểm tra, đồng thời phải có ngân sách để thực hiện việc này theo cơ chế độc lập.

Theo TS Phạm Thị Ly - ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh, các số liệu công bố từ các trường nếu không có công cụ kiểm chứng tốt sẽ không chắc chắn được độ tin cậy. Không những thế nó còn tạo ra tác dụng ngược, nên cần có sự tham gia của các tổ chức, cơ quan, cá nhân có lợi ích liên quan và có khả năng chất vấn nhà trường để tạo cơ chế minh bạch.

Đọc thêm

Lịch thi thử vào lớp 10 của 2 trường chuyên ở Hà Nội

Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2024 - 2025 của Trường THPT chuyên Ngoại ngữ. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Năm 2025 là năm đầu tiên học sinh THCS thi tuyển sinh vào các trường THPT theo chương trình giáo dục phổ thông 2018. Để giúp thí sinh làm quen, rèn luyện kĩ năng, trau dồi kiến thức, chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 diễn ra vào đầu tháng 6/2025, một số trường THPT chuyên tại Hà Nội đã bắt đầu khởi động các kỳ thi thử.

Xây lộ trình đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học

Ảnh minh họa
(PLVN) - Bộ GD&ĐT khẳng định việc triển khai đề án “Từng bước tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học” là cơ hội lớn đối với ngành Giáo dục nói chung, người dạy và học tiếng Anh nói riêng. Do đó đã đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện đề án này.

Giáo dục thế hệ trẻ văn hóa sẻ chia, tình nghĩa đồng bào

Các em học sinh thuộc Dự án The Up Project mùa 7 có những hoạt động thiện nguyện ý nghĩa ở các bản làng vùng cao. (Nguồn: The Up Project)
(PLVN) - Hiện nay, bên cạnh việc dạy học các môn văn hóa, rất nhiều trường chú tâm rèn luyện đạo đức, “vun trồng” lòng nhân ái cho các em học sinh. Phù hợp với phương châm “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, học sinh được khuyến khích lan tỏa văn hóa sẻ chia. Sẻ chia ở đây là tình yêu thương, vốn kiến thức,... mà các em dành tặng cho những mảnh đời khó khăn hơn.

Quản lý dạy thêm, học thêm và câu hỏi đang đặt ra

Việc dạy thêm, học thêm đang được "siết chặt" theo Thông tư 29. (Nguồn: MT).
(PLVN) - Từ ngày 14/2/2025, Thông tư 29/2024/TT-BGD&ĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm đã chính thức có hiệu lực. Việc “siết” dạy thêm, học thêm có đưa giáo dục về đúng giá trị thật, giữ gìn sự tôn nghiêm của nhà giáo không là những câu hỏi đang được đặt ra...

Những người truyền cảm hứng STEM cho trẻ em

Chuyên gia chia sẻ về bình đẳng giới trong giáo dục STEM. (Ảnh: CEPEW)
(PLVN) - Họ là những nhà giáo, nhà khoa học, chuyên gia công nghệ không ngừng nỗ lực đưa STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học) đến gần hơn với trẻ em Việt Nam. Từ ngôi nhà, giảng đường đến các lớp học vùng cao, họ không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn thắp lên đam mê khám phá, giúp thế hệ trẻ tiếp cận, làm chủ tri thức về khoa học, công nghệ và đưa ra quyết định cho tương lai.

Khi học thêm không còn... nhọc nhằn

Cô trò trường Tiểu học Ngô Tất Tố, Hải Phòng, cân bằng giữa học và các hoạt động ngoại khóa. (Ảnh minh hoạ: M.M)
(PLVN) - Nhiều người lo lắng nếu bỏ dạy thêm thì con họ không thể học thêm. Không học thêm thì sợ không có điểm số cao, không bằng bạn bằng bè, không bằng “con nhà người ta”, không có học bạ đẹp đẽ cho bố mẹ tự hào mỗi dịp kết thúc năm học, không đỗ trường chuyên, lớp chọn...

Muôn cách 'lách luật' dạy thêm

Việc kiểm soát, siết chặt học thêm, dạy thêm đem lại nhiều lợi ích cho các em học sinh.
(PLVN) - Sau khi Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT (Thông tư 29) của Bộ GD&ĐT có hiệu lực từ ngày 14/2/2025, việc học thêm, dạy thêm ở Việt Nam đang được siết chặt. Rất nhiều lớp học thêm tạm ngừng dạy, tuy nhiên, vẫn còn những giáo viên cố gắng “lách luật” để tiếp tục dạy thêm.

Học sinh hãy tự học, thay vì tâm thế chờ đợi

Các thầy cô Hà Nội tại buổi làm việc về thực hiện Thông tư 29. (Ảnh: minh họa MOET)
(PLVN) - Thông tư 29/2024/TT-BGD&ĐT (Thông tư 29) quy định về dạy thêm, học thêm được áp dụng ngay trong học kỳ 2 năm học 2024 - 2025, thời điểm kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh lớp 10 đến gần đang đặt ra câu hỏi, cách nào để học sinh cuối cấp không học thêm thầy cô trong trường vẫn đạt kết quả thi tốt như mong muốn?.

Việt Nam có nhiều dư địa cho đầu tư giáo dục chất lượng cao

Một nhóm học sinh Hà Nội tham gia Ngày hội Công nghệ thông tin. (Ảnh: TTXVN)
(PLVN) - Kết quả nghiên cứu của Saville Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bình Dương được công bố năm 2023 cho thấy một bức tranh về sự phát triển của các trường tư thục và những thách thức của hệ thống giáo dục hiện tại trong bối cảnh nhu cầu về giáo dục chất lượng ngày càng tăng.

Quản lý dạy và học thêm cần bảo đảm cân bằng giữa giáo dục và cuộc sống

Các trung tâm dạy thêm tại Nhật Bản rất phổ biến. (Ảnh: Japan Today)
(PLVN) - Dạy và học thêm đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia, đặc biệt tại những nền giáo dục cạnh tranh cao và áp lực thi cử lớn. Quản lý hoạt động dạy và học thêm là một thách thức với các nhà quản lý, đòi hỏi sự cân bằng giữa nhu cầu nâng cao, bổ trợ kiến thức ngoài giờ học chính quy và việc bảo vệ quyền lợi, giảm thiểu áp lực không đáng có cho học sinh.

Khơi dậy niềm yêu thích lịch sử qua những tiết học thực tế

Học sinh tham gia chương trình giáo dục lịch sử địa phương tại Thành cổ Xương Giang. (Ảnh: PV)
(PLVN) - Nhắc đến môn Lịch sử, nhiều người thường hình dung đến những trang sách dày đặc chữ và những con số khô khan nhưng thực tế lịch sử còn là những câu chuyện sống động, chứa đựng nhiều bài học ý nghĩa về quá khứ. Để thay đổi suy nghĩ và khơi dậy niềm yêu thích môn học này, những tiết học thực tế đã ra đời, giúp học sinh không chỉ hiểu rõ hơn về lịch sử mà còn nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc.