Thậm chí, tại Hội thảo “Xử lý nợ xấu – Những nút thắt cần tháo gỡ” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phối hợp với Văn phòng Quốc hội, Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức hôm 26/10, nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc cần có đạo luật riêng để xử lý nợ xấu.
Nợ xấu – xấu đến cỡ nào?
Hiện nay, nợ xấu và xử lý nợ xấu là vấn đề thu hút sự quan tâm đặc biệt của cả cộng đồng xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách để có thể khơi thông những ách tắc trong nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Xử lý nhanh, dứt điểm nợ xấu không chỉ là mong muốn của ngành Ngân hàng mà còn là mong muốn của cả hệ thống chính trị.
Đúng là ngành Ngân hàng phải chịu trách nhiệm về nợ xấu, tuy nhiên nguồn gốc của nợ xấu là do các doanh nghiệp, hộ gia đình vay vốn nhưng không trả được nợ vay, vì cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Và nợ xấu không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), mà còn ành hưởng rất xấu đến cả nền kinh tế.
Để xử lý nợ xấu, NHNN đã xây dựng, trình Bộ Chính trị, Chính phủ chấp thuận và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam” tại Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013.
Từ cuối năm 2012 đến tháng 8/2016, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN, các TCTD đã tích cực nâng cao chất lượng tài sản, kiểm soát chất lượng tín dụng và xử lý nợ xấu, đặc biệt là nỗ lực tự xử lý nợ xấu bằng các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, nhận tài sản thay nghĩa vụ nợ, sử dụng dự phòng rủi ro... Kết quả, tính đến thời điểm 31/8/2016, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 548,5 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó chủ yếu là do các TCTD tự xử lý (chiếm 57,2%), còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 42,8%.
Tại hội thảo, ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch HDTV VAMC cho biết, từ năm 2013 đến nay, VAMC đã mua được 25.062 khoản nợ tại 42 tổ chức tín dụng (TCTD) với tổng dư nợ gốc 262.054 tỉ đồng, giá mua nợ luỹ kế 227.848 tỉ đồng. Hầu hết các khoản nợ đã mua đều có tài sản đảm bảo. Sau khi mua nợ, VAMC và các TCTD đã cơ cấu lại nợ 55.603 tỉ đồng, bán nợ 841 tỉ đồng, đôn đốc thu hồi nợ 15.875 tỉ đồng... tổng cộng đã xử lý được 155.362 tỉ đồng liên quan đến gần 8.500 khách hàng.
Con số khác từ NHNN cho biết, tính đến thời điểm 31/8/2016, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 548,5 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó chủ yếu là do các TCTD tự xử lý (chiếm 57,2%), còn lại là bán nợ (bao gồm bán cho VAMC và tổ chức, cá nhân khác) chiếm 42,8%.
Theo báo cáo, năm 2012 tỉ lệ nợ xấu là 4,2%, sau khi thực hiện các biện pháp xử lý thì đến cuối năm 2015 giảm xuống còn 2,55% nhưng đến tháng 6/2016 lại có xu hướng tăng lên 2,7%.
Tuy nhiên, theo TS Cấn Văn Lực, hiện có 3 con số về nợ xấu. Cụ thể, BIDV tính toán nợ xấu hiện vào khoảng 7% tổng dư nợ tín dụng, theo tính toán của Thuỵ Sĩ là khoảng 8%, còn theo IMF là 10-11%. “Đã đến lúc phải có cơ chế đột phá để xử lý nợ xấu một cách có hiệu quả vì 3 năm qua, nợ xấu mới được dẹp sang một bên khi bán cho VAMC”, TS Lực đề nghị.
Luật sư Trương Thanh Đức cũng cho rằng nếu không nhìn thẳng vào sự thật là nợ xấu của hệ thống ngân hàng hiện nay không dưới 10% đúng như khuyến cáo của IMF thì sẽ không thấy được nguy cơ để có quyết tâm xử lý…
Luật sư Trương Thanh Đức |
Phải có cơ chế đủ mạnh
Theo tính toán của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, trong điều kiện nền kinh tế vận hành bình thường, mỗi năm chúng ta vẫn có thêm khoảng 1- 1,2% nợ xấu, quy mô khoảng 60 - 70 nghìn tỷ đồng, Kể cả khi không có nợ xấu trước đây thì trong quá trình hoạt động của các TCTD bao giờ cũng hình thành nợ xấu. Và nếu cứ tiếp tục để dồn lại thì nguy cơ ách tắc nguồn lực đối với nền kinh tế sẽ ngày càng lớn lên.
“Cần có cái nhìn khách quan về nợ xấu, nợ xấu không phải do một mình hệ thống ngân hàng gây ra mà do nhiều nguyên nhân trong đó ngân hàng là một trong những nguyên nhân...”, Chủ tịch HDTV VAMC nói. Theo ông Hùng, không để một mình ngành ngân hàng loay hoay xử lý nợ xấu, và đề nghị cần tháo gỡ những nút thắt liên quan đến cơ chế chính sách, xây dựng và thông qua một đạo luật xử lý nợ xấu hoặc có nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý nợ xấu, luật này có giá trị trong thời hạn xử lý nợ xấu tối đa từ 3 đến 5 năm. Trường hợp chưa thể ban hành bộ luật xử lý nợ xấu thì cần thiết thành lập tổ liên ngành cùng VAMC tổ chức thực hiện việc xử lý nợ xấu thông qua việc thu giữ TSBĐ, bán nợ, muốn vậy cần quy định thật cụ thể chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ liên ngành trong quá trình xử lý nợ xấu.
Qua thực tiễn hoạt động, việc xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD nói chung và VAMC nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Công tác thu hồi nợ đạt kết quả hạn chế so với khối lượng nợ xấu tồn tại. Qua các ý kiến trao đổi, chia sẻ và thảo luận của các đại biểu tại hội thảo cho thấy, những khó khăn vướng mắc trong hoạt động xử lý nợ xấu do nhiều nguyên nhân, trong đó nổi cộm 4 vấn đề chính:
(i) Các quy định pháp luật còn thiếu, chưa phù hợp để thúc đẩy hoạt động mua bán và xử lý nợ xấu; Hoạt động xử lý tài sản bảo đảm có nhiều vướng mắc nếu không có sự hợp tác của khách hàng vay, bên bảo đảm; Bên nhận bảo đảm chỉ có thể thực hiện khởi kiện tại Tòa án để thu hồi nợ. Trong khi đó, thời gian giải quyết vụ việc tại Tòa án thường bị kéo dài, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý nợ của TCTD, VAMC;
(ii) VAMC thiếu những quy định đặc thù để có thể xử lý nhanh nợ xấu. Các quy định pháp luật hiện tại chưa tạo sự thông thoáng cho hoạt động của VAMC, thậm chí còn hạn chế quyền của VAMC khi thực hiện xử lý nợ thông qua các biện pháp như bán nợ, bán tài sản bảo đảm. VAMC không thực hiện được quyền chủ nợ đối với nợ xấu mua bằng TPĐB;
(iii) Thị trường thiếu những cơ chế điều tiết linh hoạt và hiệu quả trong hoạt động mua bán và xử lý nợ xấu dẫn đến hệ quả không thu hút được các tổ chức, nhà đầu tư có tiềm lực tham gia vào hoạt động xử lý nợ tại Việt Nam. Việc bán nợ xấu cho nhà đầu tư nước ngoài gặp một số vướng mắc vì theo quy định pháp luật hiện hành, việc nhận thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thay đổi mục đích sử dụng đất... đối với nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế;
(iv) Việc xử lý nợ chưa có hành lang pháp lý rõ ràng để bảo vệ cán bộ, đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện công việc. Hệ lụy dẫn đến những hạn chế không khuyến khích TCTD, VAMC tích cực triển khai công tác xử lý nợ.
Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, việc giải quyết nợ xấu càng chậm sẽ dẫn đến chi phí để xử lý nợ càng lớn. Quá trình xử lý nợ xấu kéo dài cũng tác động đến hệ số tín nhiệm quốc gia, gây ảnh hưởng lớn tới môi trường đầu tư.
Từ những góc nhìn đầy đủ, toàn diện và nhất quán về xử lý nợ xấu, hội thảo đưa ra những giải pháp quan trọng để xử lý nợ xấu được triệt để, hiệu quả theo hướng:
Xây dựng khuôn khổ pháp lý điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi trường hoạt động minh bạch, bình đẳng, thông suốt; đặc biệt chú ý đến việc hoàn tất thủ tục pháp lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ, thu giữ tài sản, phát mại tài sản, định giá tài sản; phát triển khung pháp lý cho thị trường mua - bán và xử lý tài sản xấu.
Nâng cao năng lực xử lý nợ xấu của VAMC với những cơ chế đặc thù để VAMC có thể hoạt động hiệu quả trên nguyên tắc xử lý nợ xấu phải được thực hiện nhanh, giảm thiểu những thiệt hại phát sinh do sự chậm trễ trong xử lý nợ xấu. VAMC có thể chủ động quyết định trong việc cơ cấu lại nợ, bán nợ/TSBĐ mà không phải trao đổi để thống nhất với TCTD, doanh nghiệp có nợ xấu.
Xử lý nợ xấu cần được thực hiện bằng nguồn tiền thực để đảm bảo hiệu quả và nhanh chóng. Các hình thức xử lý nợ xấu phải được đa dạng hóa trên cơ sở đảm bảo tính công khai, minh bạch. Hệ thống thông tin nợ xấu được tổ chức để dễ dàng giới thiệu các khoản nợ xấu/TSBĐ tới các nhà đầu tư có quan tâm, nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu và tạo tiền đề để xây dựng một thị trường mua bán nợ tại Việt Nam.