Xét điều kiện kinh tế vĩ mô ngắn hạn, TTCK tháng 2 không có nhiều cơ hội. Tuy nhiên, theo chu kỳ, tâm lý NĐT thường hưng phấn hơn sau kỳ nghỉ lễ.
Diễn biến lạm phát là chìa khóa của các chính sách tiền tệ và tài khóa
Trước Tết âm lịch, NHNN tuyên bố sẽ có biện pháp điều chỉnh mặt bằng lãi suất nếu lạm phát tháng 2 dưới 1,4%. Tuy nhiên, Cục Quản lý giá đã đưa ra dự báo lạm phát tháng 2 có khả năng ở mức 1,8 - 2%, đồng nghĩa với cơ hội để điều chỉnh các chính sách về lãi suất và tăng trưởng tín dụng trong ngắn hạn sẽ giảm đi đáng kể. Chúng tôi có một số nhận định sau:
Thứ nhất, rủi ro về ảnh hưởng của chính sách tài khóa đối với lạm phát vẫn còn khá lớn, nhất là trong 3 tháng sau Tết, khi Bộ Tài chính và Bộ Công thương gần đây liên tục đưa ra các tín hiệu về việc dần thả nổi giá cả một số mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, điện nước…
Cùng với tỷ giá tăng, giá xăng dầu thế giới đang có dấu hiệu nhích lên, gánh nặng của mặt hàng này đang làm tăng thêm thâm hụt ngân sách. Để DN kinh doanh xăng dầu hòa vốn thì giá xăng dầu phải tăng tối thiểu 5 - 10%. Việc điều chỉnh giá điện trong thời gian tới gần như là tất yếu, vấn đề là điều chỉnh bao nhiêu để dung hòa giữa EVN, chiến lược phát triển chung của ngành điện và tránh tạo cú sốc đối với nền kinh tế. Giá điện thường được điều chỉnh trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6. Giá than gần đây cũng rục rịch tăng do giá bán cho 4 khách hàng lớn nhất thấp hơn giá thế giới tới 30 - 40%. Giá than tăng là một trong những nguyên nhân đẩy giá thép và chi phí đầu vào của các ngành sản xuất sử dụng than. Ảnh hưởng gián tiếp tới CPI của giá than là không nhỏ.
Thứ hai, tác động của tỷ giá đối với lạm phát đã thể hiện trong ba tháng vừa qua, nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nếu việc điều chỉnh tỷ giá chính thức không đẩy tỷ giá thị trường tự do lên mức cao mới thì cũng không đáng lo ngại, do hầu hết DN vẫn đang giao dịch với tỷ giá sát tỷ giá của thị trường tự do. Ngược lại, tác động dây chuyền có khả năng tái diễn như trong quý IV/2010.
Những yếu tố trên không hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của NHNN và đều là các yếu tố không thể không điều chỉnh trong quý I và II cho phù hợp với điều kiện thực tế. Nếu xử lý không khéo, giá cả trong những tháng sau Tết vẫn chịu nhiều áp lực. NĐT vẫn nên cẩn trọng với các rủi ro vĩ mô trong 6 tháng đầu năm, vì mâu thuẫn giữa chính sách tài khóa và tiền tệ không thể xử lý trong ngắn hạn. Để trung hòa được 2 chính sách này, phải hy sinh hiệu quả của một trong hai chính sách trong ít nhất vài tháng.
Lãi suất ít có khả năng điều chỉnh trong ngắn hạn
Mặt bằng lãi suất cao thường đồng nghĩa với chính sách tiền tệ thắt chặt. Lãi suất cao đang tác động trực tiếp và gián tiếp tới hàng loạt yếu tố trên TTCK:
- Làm tăng chi phí cơ hội giữa việc giữ tiền mặt và các kênh đầu tư khác, trong đó có TTCK. Đồng thời, làm tăng chi phí và rủi ro sử dụng đòn bẩy tài chính, nhất là trong điều kiện thị trường thanh khoản thấp, ít biến động.
- Tác động tiêu cực tới tăng trưởng và hoạt động kinh doanh của đa số DN niêm yết, nhất là ngành sử dụng vốn lưu động và/hoặc đòi hỏi hàng tồn kho lớn như thép, thủy sản, bất động sản, xi măng…
- Tác động tới tăng trưởng tín dụng, vốn là yếu tố ảnh hưởng lớn đến tâm lý NĐT và dòng tiền vào thị trường tài chính.
- Lãi suất cao trong thời gian dài làm tăng chi phí đầu vào của DN, ảnh hưởng gián tiếp tới giá cả hàng hóa và CPI.
Với lạm phát tháng 2 được dự đoán từ 1,8% - 2% thì khả năng lãi suất giảm ngay trong ngắn hạn là rất thấp. NHNN phải chờ diễn biến lạm phát của ít nhất tháng 3 và tháng 4 trước khi có điều chỉnh chính sách lãi suất phù hợp. TTCK tháng 2 được dự đoán không có nhiều cơ hội tích cực từ diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Sau kỳ nghỉ lễ dài, NĐT thực sự bước vào năm kinh doanh chứng khoán mới. (Ảnh minh họa). |
Dòng tiền vào TTCK
Trong tháng 12/2010, TTCK tăng điểm mạnh với thanh khoản cao kỷ lục, bất chấp tăng trưởng tín dụng chậm lại. Điều này cho thấy, mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và TTCK không nhất thiết phải liền với nhau. Dòng tiền đầu cơ trên thị trường hiện nay vẫn dồi dào, nên quan trọng là dòng tiền này được phân bổ như thế nào giữa các kênh đầu tư.
- Tiền gửi ngân hàng: Với lãi suất ngắn hạn ở mức 14% hiện nay, tiền gửi ngân hàng vẫn là kênh đầu tư hấp dẫn khi chứng khoán và BĐS tương đối ảm đạm. Hiện nay, theo quan sát của chúng tôi, dòng tiền rút ra từ TTCK phần lớn nằm dưới dạng tiền gửi nên khả năng quay trở lại thị trường nếu tín hiệu tốt là cao.
- Vàng: Mặc dù có nhiều dự báo lạc quan về giá vàng trung và dài hạn, nhưng tính hấp dẫn của kênh đầu tư này đang giảm dần khi giá ổn định ở vùng cao và không có nhiều biến động thời gian gần đây. Nếu thị trường thế giới ổn định thì giá vàng cũng sẽ ổn định hơn năm 2010. Với việc hạn chế nhận vàng như 1 loại tiền gửi tiết kiệm của hệ thống ngân hàng thì vàng hiện nay không còn hứa hẹn là kênh đầu tư ngắn hạn hấp dẫn như năm 2010.
- Ngoại tệ: Lo ngại sự mất giá của VND, ngoại tệ trong thời gian qua được mua vào khá nhiều. Cùng với lãi suất USD tăng và khả năng sớm điều chỉnh tỷ giá trong năm 2011, giữ ngoại tệ được coi là khá an toàn trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, đa phần ngoại tệ nếu được mua vào để gửi tiết kiệm đều phục vụ cho mục đích trung và dài hạn nên ít có khả năng chuyển sang TTCK trong ngắn hạn.
- Bất động sản: Theo dự đoán, 2011 tiếp tục là năm khó khăn của một số phân khúc bất động sản. Thông thường, mối quan hệ giữa thị trường bất động sản và chứng khoán khá chặt chẽ, nên tài sản được phân bổ giữa 2 kênh đầu tư này có xu hướng ổn định.
- Chứng khoán: Để đạt được mức lợi nhuận như gửi tiết kiệm VND (14%), VN-Index năm 2011 phải tăng từ 484 điểm lên 550 điểm. Loại trừ một số BCs đang "nâng đỡ" VN-Index thì mốc 550 điểm trong ngắn hạn là một thách thức không nhỏ. Tuy nhiên, đây là mốc điểm khả thi đối với NĐT trung và dài hạn.
Đối với NĐT nước ngoài, 2 yếu tố quan trọng tại thị trường Việt Nam là chính sách tỷ giá và lạm phát. Chúng tôi chưa kỳ vọng vào sự xuất hiện của các quỹ đầu tư mới hay các đợt huy động vốn thành công ngay trong 6 tháng đầu năm.
Kết quả kinh doanh 2010
Trong tháng 1, một số DN tiêu biểu cho từng nhóm ngành đã công bố kết quả kinh doanh quý IV và cả năm 2010, trong đó có khá nhiều con số tích cực. Đáng chú ý là giá cổ phiếu của những DN này hầu như không có phản ứng, bất chấp kết quả kinh doanh vượt hay không vượt kỳ vọng của NĐT, trừ một số mã BCs dẫn dắt thị trường. Điều này cho thấy vai trò của báo cáo quý IV/2010 đối với thị trường trong tháng 2 - 3 khi các DN còn lại công bố thông tin sẽ không được kỳ vọng nhiều. Kịch bản này tương đối giống với năm 2010, khi thị trường chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ và mặt bằng lãi suất cao. Cùng với xu hướng đầu tư tập trung vào BCs thay vì penny stock (PNs) như năm 2010, chiến lược đầu tư tối ưu nhất là các mã BCs có yếu tố cơ bản tốt nhưng chưa tăng giá trong tháng 1 vừa qua. Kết quả kinh doanh quý IV/2010 cùng định hướng kinh doanh năm 2011 là 2 yếu tố kiểm chứng lại giá trị cơ bản của các mã BCs này.
Xu hướng đầu cơ vào BCs
Sau kỳ nghỉ lễ dài, NĐT thực sự bước vào năm kinh doanh chứng khoán mới. Chúng tôi nhận định tâm lý NĐT sẽ có xu hướng chuyển dần từ thận trọng sang quan sát chặt chẽ diễn biến thị trường để có chiến lược giải ngân hợp lý. Tâm lý NĐT tháng 2 sẽ có những đặc điểm sau:
- Tâm lý sẽ chuyển từ hạn chế giải ngân trước kỳ nghỉ lễ sang sẵn sàng tìm kiếm các cơ hội giải ngân. Một số BCs đang có tín hiệu kỹ thuật bắt đầu tăng điểm và được các NĐT quan tâm dần mặc dù mới chỉ dừng ở mức độ thăm dò.
- Tâm lý lạc quan hơn sau khi nhân sự Chính phủ khóa mới cơ bản được định hình và hứa hẹn các chính sách quyết liệt hơn từ năm 2011. Khi lạc quan hơn, NĐT có thể sẽ tăng dần mức giá đặt mua thay vì mua ở mức giá tham chiếu hoặc thấp hơn mức tham chiếu như trước Tết.
Với 2 đặc điểm trên, TTCK tháng 2 đang được hỗ trợ tâm lý tốt hơn tháng 1. NĐT sẽ chuyển từ đầu tư cục bộ một số ít CP được nâng đỡ trong tháng 1 sang nhiều mã cổ phiếu hơn, tạo thành một làn sóng đầu tư mới như đã từng xảy ra với PNs trong năm 2010.
Thời gian gần đây, thị trường nhắc nhiều đến sự "méo mó" của VN-Index khi chỉ số này tăng điểm trong khi đa số cổ phiếu giảm giá do vài mã BCs "nâng đỡ". Khi BCs được quan tâm và tạo thành xu hướng lợi nhuận cho năm 2011, tất yếu sẽ dẫn đến việc tái cơ cấu danh mục của các NĐT ngắn hạn để có nguồn tiền mới, chuyển dòng tiền sang BCs, tạo áp lực lên PNs trong thời gian tới. Đây là điều hợp lý, vì sau khi hầu hết các mã có vốn hóa nhỏ và trung bình tăng giá mạnh trong năm 2010 trong khi BCs giảm tới 20 - 30% thì việc phục hồi của BCs trong năm 2011 là không bất ngờ, tạo thành điểm cân bằng về giá trị.
Bỏ qua các yếu tố ảnh hưởng đến cách tính các chỉ số, vì đây chỉ là công thức tính toán kỹ thuật, thì việc "lên ngôi" của BCs năm nay khá phù hợp với chu kỳ của thị trường. Nhóm cổ phiếu nào suy giảm mạnh hơn mặt bằng chung sẽ có cơ hội phục hồi mạnh nhất. Nhưng nếu tăng không dựa trên giá trị cơ bản của cổ phiếu thì khả năng điều chỉnh cũng rất cao.
Tóm lại, trong điều kiện kinh tế vĩ mô chưa có các dấu hiệu khởi sắc, thanh khoản thị trường còn nhiều áp lực thì dòng tiền đầu cơ sẽ chiếm ưu thế. Trong khi năm 2010 NĐT tập trung vào PNs thì năm 2011 xu hướng đầu cơ sẽ tập trung vào BCs. Tuy nhiên, do nguồn cung của các BCs khá lớn và ít tập trung vào 1 nhóm NĐT cá nhân như PNs nên khi giá cổ phiếu tăng mạnh, khả năng điều chỉnh sẽ cao hơn. Chúng tôi khuyến nghị NĐT tập trung vào các BCs có cơ bản tốt nhưng chưa tăng giá nhiều trong tháng 1 như PVS, VNM, PVD, SJS, CII…
24H.COM.VN (Theo Diễn đàn doanh nghiệp)