Ở thôn Văn Thai xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương có một ngôi đền mang tên: Đền Bia. Tấm bia đá được người dân ở đây coi như bảo vật thờ phụng suốt mấy trăm năm là câu chuyện xúc động liên quan đến cuộc đời của vị đại danh y được người đời xưng tụng - “vị thánh thuốc nam”, đó chính là thiền sư Tuệ Tĩnh.
Vị thánh thuốc Nam
Đại danh y Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, ông tổ khai sinh ra nền y học cổ truyền dân tộc. Ông sinh năm canh ngọ 1330 tại làng Nghĩa Phú (tục gọi là làng Xưa, thuộc tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng).
Lên 6 tuổi ông mồ cô cả cha lẫn mẹ, được sư cụ chùa Hải Triều (chùa giám xã Cẩm Sơn, Cẩm Bình) nuôi ăn học. Chùa trồng nhiều hoa huệ , một hôm Bá Tĩnh đối được vế đối về hoa huệ trắng trong, cao thượng , sư ông liền đặt cho tên hiệu rất đẹp đẽ và nhân ái đó là Huệ Tĩnh. Sau này do dân gian tưởng người thầy thuốc “Ngũ tướng” mắt giống mắt phật (Tuệ Nhãn) tinh anh nên gọi là Tuệ Tĩnh (ông Tĩnh có mắt giống mắt Phật)
Đại danh y Tuệ Tĩnh |
Vốn thông minh ham học, năm Tân Mão (1357) ông thi đậu Hoàng Giáp. Trước tình cảnh nhân dân đói khổ bệnh tật, Tuệ Tĩnh không ra làm quan mà nương nhờ của Phật để theo đuổi chí hướng suốt đời nghiên cứu thuốc nam chữa bệnh cứu người .
Trong một thời kỳ mà thuốc bắc đang thịnh hành, phương châm của ông là “Nam dược trị nam nhân” (thuốc nam chữa bệnh cho người Nam). Ông chuyên tâm nghiên cứu y học giáo lý, ông lấy vườn chùa làm cơ sở trồng cây thuốc. Từ trong cỏ cây, hoa lá, củ quả phong phú của đất mẹ Việt Nam, ông sưu tầm các bài thuốc giản dị, thông dụng trong dân gian, đúc rút kinh nghiệm trị bệnh của thuốc Bắc.
Tuệ Tĩnh đã sáng tạo lên những bài thuốc đơn giản mà công dụng, cứu giúp được nhiều người bệnh nghèo khổ, dập tắt những trận dịch lớn. Người dân được ông chữa bệnh không lấy tiền. Vị thiền sư này còn huấn luyện đội ngũ tăng ni trở thành thầy thuốc của nhân dân.
Tìm nguồn dược liệu trồng tại vườn chùa gây dựng phong trào trồng cây thuốc, thu trữ thuốc ở gia đình để chữa bệnh kịp thời, Tuệ Tĩnh nhận định, Việt Nam có khí hậu nóng ẩm, nên bệnh thiên về thấp nhiệt, đàm hỏa và thường thì chính khí hư yếu. Do đó, phép chữa: Thanh nhiệt, trừ thấp, tả hỏa, hóa đàm, công bổ kiêm thi.
Với sự truyền bá các phương thuốc đơn giản và dược tinh bằng thơ phú chữ nôm dễ hiểu, sự nghiệp của Tuệ Tĩnh đã thúc đẩy nguồn dược liệu Việt Nam phát triển, xây dựng quan điểm y học dân tộc đại chúng
Tuệ Tĩnh là tác giả của tác phẩm Y học và Phật Học (Thiền Tông) có giá trị như Nam dược thần hiệu gồm 11 quyển sách nói về dược tính của 580 vị thuốc nam và 3873 phương thuốc điều trị 184 loại bệnh. Sách Hồng Nghĩa giác tư y thư gồm 2 quyển nói về 13 phương gia giảm và 37 phương trị thương hàn, Thiền tông hóa hư lục (diễn nôm) …những tác phẩm của ông có ảnh hưởng trong giới y học nước nhà.
Chính Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng ảnh hưởng khá nhiều những tác phẩm của Tuệ Tĩnh. Cho đến ngày nay những tác phẩm của ông vẫn là những di sản quý báu đang được kế thừa và phát huy trong việc xây dựng nền y học dân tộc hiện đại. Tuệ Tĩnh giữ vị trí quan trọng trong lịch sử lâu đời của nền y học nước nhà. Nhân dân suy tôn Tuệ Tĩnh là vị thánh thuốc Nam.
"Ai về nước Nam cho tôi về với!"
Năm giáp tý (1384) Tuệ Tĩnh được vua phái đi xứ Minh. Đến Trung Quốc ông đã có công chữa khỏi bệnh cho Tống Vương Phi hoàng hậu của nhà Minh. Ông được vua Minh cảm tài phong cho danh hiệu “Đại Y Thiền Sư” và lưu ông ở Kim Lăng Trung Quốc. Được trọng dụng nhưng người con đất Việt này luôn nhớ về quê hương đất nước, biết số phần mình sống nhờ thác gửi, nên ông đã di ngôn để tạc vào bia mộ dòng chữ “Ai về nước Nam cho tôi về với”. Một thời gian sau ông mất ở Giang Nam. Hiện Giang Nam còn mộ chí của ông.
Đền Bia |
Gần ba trăm năm sau, năm 1690 tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang Trung Hoa, tình cờ thấy mộ Tuệ Tĩnh, nhận ra là người cùng làng. Cảm động với lời nhắn gửi thiết tha của vị danh y, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đã sao chép bia mộ và tạc khắc bia đá mang về quê hương.
Tương truyền: Thuyền chở bia về cánh đồng Văn Thai ở địa điểm tiếp giáp giữa làng Văn Thai và Làng Nghĩa Phú quê hương của Tuệ Tĩnh thì bị lật, bia rơi xuống và không lấy lên được. Ít lâu sau nước cạn nhân dân đã tìm thấy tấm bia. Thấy doi đất ở đây có hình con dao cầu (con dao thái thuốc Nam) nhân dân cho rằng đây là nơi địa linh nên Thánh đã chọn để linh ứng, vì vậy đã đắp đất, dựng bia, lập đền để thờ cúng, cách ngôi đền ở quê hương Tuệ Tĩnh khoảng hơn 1km.
Sau này số phận của tấm bia cũng như gặp nhiều long đong như chính chủ nhân của nó. Người xưa kể lại, từ khi lập nên đền Bia người dân quá tin vào vị Thánh thuốc Nam nên từ khắp nơi kéo về lấy thuốc, hái lá và xin nước ở đền Bia để uống cầu mong khỏi bệnh. Năm 1846 , một ngày có hàng ngàn người đến Đền Bia.
Vua Thiệu Trị đã hạ chiếu cấm việc cúng bái và xin thuốc ở đây vì ông cho rằng đó là việc “mê tín dị đoan”. Vị vua này đã sai người mang tấm bia cất giữ trong kho của tỉnh. Đến năm 1936, một người của làng Văn Thai làm thủ kho đã lấy lại tấm bia bí mật mang về đền. Từ đó khách lại đến xin thuốc và cung tiến tiền để tu sửa đền.
Tin đồn lại đến tai nhà vua .Vua bèn sai người đục hết chữ trên tấm bia.. Để cất giấu tấm bia đá này, người dân làng Văn Thai đã đặt trong tường chùa Văn Thai rồi xây kín lại. Nhờ đó mà tấm bia tồn tại được cho đến ngày hôm nay. Cho đến nay bia không còn đọc được chữ gì nữa, nhưng vẫn là “bảo vật” được đặt trang trọng trong tủ kính phía sau cùng của gian hậu cung. Tấm bia như một cột đá nhỏ, cao khoảng 80cm rộng khoảng 20cm.
Ngôi đền thiêng
Ngày 10/3/1994 đền Bia được xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2003 dự án trùng tu đền Bia đã được phê duyệt. Ngày nay đền Bia là một công trình khang trang bề thế. Tổng diện tích gần 4ha gồm khu thờ tự và khu y xá được xây dựng theo kiến trúc thời Nguyễn với vật liệu hoàn toàn bằng gỗ lim và gạch Bát Tràng.
Khu thờ tự gồm 5 công trình: Tam quan, nhà thuỷ đình, nhà tả vu và hữu vu, tiền tế và hậu cung, tổng số 23 gian, còn lại là sân vườn, tường bao và cổng.. Khu y xá gồm 3 công trình: Nhà bắt mạch kê đơn thuốc, nhà bốc thuốc và nhà chẩn trị, mỗi công trình 5 gian. Ngoài ra còn có nhà từ tâm dùng đón tiếp khách.
Trong khán thờ tượng Tuệ Tĩnh , bức ượng đúc bằng đồng ngồi trên ngai, đầu đội khay, mắt sáng râu dài, hai tay chắp trước ngực, mặc áo thêu hình rồng .
Trong đền treo đôi câu đối ca ngợi Tuệ Tĩnh: Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa/ Thánh sư diệu dược trấn Nam bang (Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng lẫy đất Bắc/Chữa bệnh thần diệu tài quán nước Nam)
Với vị trí nằm ở cánh đồng nơi tiếp giáp giữa làng Văn Thai và làng Nghĩa Phú, giữa cánh đồng lộng gió, ngôi đền không bị thứ gì che khuất, xung quanh đều được trồng nhiều loại cây xanh tốt. Ở sau đền còn có một ao nước lúc nào cũng trong vắt, các cây được trồng trong đền đều là cây thuốc nam. Người dân trong vùng mỗi khi cần đều đến đền xin thuốc để chữa bệnh.
Ngoài lễ hội lớn vào ngày 15/2 hàng năm, thì bắt đầu từ mùng Một Tết kéo dài hết tháng giêng, ngôi đền linh thiêng này đón hàng vạn khách thập phương các nơi đến đền du xuân, cầu mong cho năm mới bình an sức khỏe. Nếu ai được nghe câu chuyện về dòng chữ khắc trên tấm bia mộ của ông “ Ai về nước Nam, cho tôi về với” hẳn càng cảm phục ông hơn và thấy trong lòng mình cũng đang rộn lên tình yêu tổ quốc .
Hoàng Giang