Bài học về nhận diện đúng yêu cầu cải cách bộ máy và kiên quyết chỉ đạo thực hiện.
Lên ngôi năm 1460, Vua Lê Thánh Tông thừa hưởng một “di sản” là quyền lực của nhà vua bị đe dọa bởi các công thần của thời kỳ chống quân Minh như Lê Sát, Lê Ngân, Lê Thụ, Lê Soạn... Tiếp theo phải kể đến sự tha hóa của đội ngũ quan lại trong bộ máy từ trung ương đến địa phương. Tình trạng hưởng thụ, cậy thế, cậy quyền, tham nhũng, hối lộ, vu cáo, sát hại lẫn nhau là tương đối phổ biến. Kết quả là bộ máy hành chính vốn là các cơ quan phải giúp nhà vua cai quản đất nước trên các lĩnh vực tương ứng hoạt động yếu kém.
Thấy được những điểm yếu này, Vua Lê Thánh Tông đã đi đến quyết định phải thay đổi, phải cải cách mà mở đầu là dụ “Hiệu định quan chế” ban bố năm 1471 sau 11 năm lên ngôi. Yêu cầu thay đổi, cải cách này của Vua Lê Thánh Tông được ông duy trì trong suốt 37 năm trị vì, bởi thay đổi không thể ngay một lúc có thể làm được, mà phải có lộ trình, có từng bước đi thích hợp.
Bài học này vận vào thời nay vẫn nguyên giá trị. Sự cần thiết phải cải cách bộ máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nói riêng đã được Đảng ta chỉ rõ từ nhiều năm nay và về mặt nhà nước đã được Chính phủ tổ chức thực hiện, nhất là trong việc triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 và giai đoạn 2011 – 2020.
Bài học về triết lý thiết kế bộ máy phải rõ và phù hợp
Triết lý thiết kế bộ máy hành chính của Vua Lê Thánh Tông chính là duy trì, củng cố chế độ phong kiến tập quyền, quyền lực tập trung vào trung ương, không phân quyền cho địa phương, mà ở trung ương thì quyền lực tập trung vào vua, tất cả các cơ quan hành chính lập ra đều là giúp việc vua, các cơ quan có sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau khá chặt chẽ.
Vậy triết lý cải cách, thiết kế bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính hiện tại là gì? Đã đủ rõ và phù hợp chưa? Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đưa thêm 2 từ kiểm soát, cụ thể ở Điều 2: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Lập pháp kiểm soát hành pháp và tư pháp ít nhiều thể hiện khá rõ trong các quy định pháp luật, tuy nhiên hành pháp và tư pháp kiểm soát lập pháp thế nào lại còn để ngỏ. Từ đó cho thấy hết sức cần thiết cụ thể hóa, làm rõ thêm triết lý thiết kế bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy hành chính nói riêng trong thời gian tới.
Bài học về học kinh nghiệm nước ngoài và tổ chức tốt việc thực hiện
Vua Lê Thánh Tông xây dựng bộ máy hành chính không phải từ con số không. Ông có kinh nghiệm của các triều Lý, Trần, của các Vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông để suy nghĩ và thiết kế bộ máy. Đặc biệt, ông đã tham khảo và vận dụng thành công kinh nghiệm thiết kế và vận hành bộ máy hành chính của nhà Minh.
Đây không phải là điểm riêng có của thời kỳ Vua Lê Thánh Tông trị vì mà là một trong những nét nổi bật của lịch sử hình thành nền hành chính Việt Nam thời phong kiến, đó là “tiếp thu mô hình của các triều đại phong kiến Trung Quốc, từ việc thiết lập các cấp chính quyền, các cơ quan nhà nước (cùng thể chế làm việc), các chức danh quan lại đến cả việc soạn thảo các văn bản pháp luật”.
Nhấn mạnh bài học này vào thời điểm hiện tại có ý nghĩa hết sức quan trọng vì thực tiễn cải cách hành chính mấy chục năm qua ở nước ta đã cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu và vận dụng kinh nghiệm nước ngoài trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Chúng ta cũng có những thành công nhất định ở điểm này, ví dụ như cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập...
Tuy nhiên, cũng có không ít kinh nghiệm nước ngoài đưa vào áp dụng lại chưa mang lại kết quả mong muốn. Nhận diện vấn đề này và liên hệ với bài học tương ứng thời Vua Lê Thánh Tông sẽ giúp chúng ta thu được kết quả tốt hơn khi áp dụng kinh nghiệm nước ngoài vào thiết kế bộ máy hành chính trong quá trình cải cách hành chính ở nước ta thời gian tới.
Bài học về việc đến đâu, bộ máy đến đó
Có thể thấy bộ máy hành chính thời Vua Lê Thánh Tông là tương đối gọn nhẹ, mỗi cơ quan có nhiệm vụ rõ ràng. Sau khi ban bố dụ “Hiệu định quan chế”, tổng số quan lại cả nước là 5.370 người, trong đó có 2.755 người ở bộ máy trung ương và 2.615 người ở địa phương. Hiện tượng bộ máy cồng kềnh, biên chế quá nhiều không xảy ra. Vì thế, điều đáng học ở đây chính là thiết kế bộ máy phù hợp, việc nhà nước đến đâu mới tính bộ máy đến đó. Rà soát lại, điều chỉnh, đi đến định rõ từng cơ quan hành chính làm gì là hết sức cần thiết và khi làm việc này không nên quên bài học mà Vua Lê Thánh Tông đã để lại.
Bài học về coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong bộ máy hành chính
Để bảo đảm quyền lực tuyệt đối của mình, bảo đảm cho bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng của quan lại, Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm thiết kế cơ quan chuyên trách công tác kiểm tra, giám sát quan lại. Lục Bộ theo chức trách hoạt động lại có Lục Khoa giám sát. 6 cơ quan này không đặt trong các Bộ, mà trực thuộc Vua.
Triết lý về bộ máy, về con người trong bộ máy xưa và nay cơ bản không khác nhau. Bộ máy hành chính hoạt động không tránh được khiếm khuyết, con người thực thi quyền lực công khó tránh những cám dỗ, dễ tha hóa. Răn đe, phòng ngừa và trị tội khi xảy ra là chức trách các cơ quan được lập ra. Thiết lập và tạo điều kiện để có được một bộ máy giám sát, kiểm tra như vậy thời Vua Lê Thánh Tông đáng để thời nay suy ngẫm. Rất nhiều tổ chức làm việc này, nhưng hiệu quả không cao, tình trạng cán bộ, công chức, viên chức tha hóa, tham nhũng đang không còn là cá biệt.
Bên cạnh đó, bộ máy đúng phải có người đúng vận hành. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm đáng quý cho thời nay tham khảo và học tập.