Trong thực tế, số việc THADS các vụ án thuộc nhóm tội tham nhũng không nhiều. Một số vụ việc THA nổi cộm gần đây được dư luận xã hội quan tâm không phải tất cả đều là án tham nhũng, mà chủ yếu là các vụ việc liên quan đến các tội phạm về kinh tế, với các tội danh như cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ, nổi lên một số vụ việc điển hình, như: vụ Phạm Thanh Bình (Vinashin), vụ Nguyễn Đức Kiên, vụ Vũ Quốc Hảo (Công ty Đầu tư tài chính II), vụ Huỳnh Thị Huyền Như…
Ngoài việc bị tuyên xử các hình phạt nghiêm khắc (tử hình, chung thân, tù giam), người phải THA trong các vụ án này còn phải thi hành phần trách nhiệm dân sự với giá trị phải thi hành rất lớn, có trường hợp số tiền phải THA lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Thời gian qua, các cơ quan THADS luôn chú trọng, chỉ đạo sát sao các chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành các vụ việc loại này; các chấp hành viên cũng đã tích cực đôn đốc, xác minh, áp dụng các biện pháp THA phù hợp để thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước ở mức cao nhất.
Kết quả THA các vụ án tham nhũng, thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước đã có những chuyển biến nhất định; nhận thức của các cấp, các ngành, của Lãnh đạo và chấp hành viên các cơ quan THADS về trách nhiệm của mình trong việc tổ chức THA các vụ việc loại này ngày càng được nâng lên; nhiều nơi đã thành lập tổ, nhóm chỉ đạo THA, lập kế hoạch giải quyết đối với từng vụ việc; nhiều tài sản kê biên để bảo đảm THA đã được tập trung xử lý; định kỳ hàng tháng báo cáo tiến độ, kết quả THA bảo đảm đúng yêu cầu của Tổng cục THADS…
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, việc THA các vụ việc loại này vẫn còn những hạn chế tồn tại, chưa đáp ứng yêu cầu; số tiền thu được còn quá ít so với tổng số phải thi hành; một số trường hợp xử lý tài sản để THA còn chậm…
Tuy nhiên, khó khăn nổi lên trong các vụ án tham nhũng là để thu được tiền, tài sản THA, cơ quan THADS phải tiến hành xử lý các tài sản đã được các cơ quan tiến hành tố tụng kê biên, đồng thời xác minh, truy tìm tài sản khác của đương sự để xử lý đảm bảo THA. Nhưng nhiều vụ việc số tiền phải THA lớn, mà tài sản để bảo đảm THA có giá trị rất nhỏ, không đủ thi hành nghĩa vụ mà bản án đã tuyên. Ví dụ, việc THA đối với Dương Chí Dũng trong vụ Vinalines. Theo quyết định của bản án thì Dương Chí Dũng và đồng bọn phải liên đới bồi thường cho Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam trên 358 tỷ đồng (chia theo phần: Dương Chí Dũng phải nộp 110 tỷ đồng). Quá trình THA, cơ quan THA đã xử lý tài sản kê biên và chỉ thu được trên 14 tỷ đồng.
Hầu hết đương sự phải THA phần trách nhiệm dân sự trong các vụ việc loại này phải chấp hành hình phạt tù với thời hạn dài, thậm chí bị tuyên án tử hình, nhiều trường hợp không có tài sản, tiền, thu nhập để THA; gia đình, người thân không có khả năng hỗ trợ THA…
Việc xác minh điều kiện THA, ngoài các tài sản đã được kê biên, tuyên xử lý trong bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan THADS khó có thể xác minh được thêm tài sản hoặc nguồn thu nhập khác, vì tội phạm tham nhũng thường tìm mọi cách để tẩu tán, che giấu, hợp lý hóa tài sản, trong khi đó cơ quan THADS chỉ có thể căn cứ vào tình trạng pháp lý hiện hành của tài sản để xử lý mà không có thẩm quyền điều tra, chứng minh nguồn gốc tài sản do phạm tội mà có.
Hơn nữa, cơ chế quản lý tài sản ở nước ta hiện nay còn thiếu minh bạch, các giao dịch kinh tế, dân sự hiện nay vẫn chủ yếu được thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền mặt, do đó khó kiểm soát được thu nhập, tài sản của tổ chức, cá nhân và cũng gây khó khăn cho việc áp dụng các biện pháp phong tỏa, kê biên tài sản của cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó, một số trường hợp, công tác phối hợp trong THADS hiệu quả chưa cao, trong đó có việc chậm chuyển giao biên bản và tài liệu liên quan đến tài sản kê biên bảo đảm THA trong giai đoạn tố tụng, ví dụ như vụ Huyền Như; một số nơi, cơ quan THADS, chấp hành viên còn ngại khó, chưa thực sự quyết liệt tổ chức THA. Hoạt động hợp tác quốc tế trong việc THA có yếu tố nước ngoài nói chung và trong truy tìm, xử lý tài sản bảo đảm THADS ở nước ngoài nói riêng còn chưa cụ thể, thậm chí chưa có quy định, dẫn đến công tác phối hợp, tổ chức thực hiện gặp khó khăn, lúng túng.
Nhận diện đầy đủ, chính xác những hạn chế, tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong THADS nói chung, trong THA các vụ án tham nhũng, thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước nói riêng sẽ giúp các chủ thể có liên quan đưa ra các biện pháp, giải pháp hữu hiệu trong chỉ đạo cũng như tổ chức thực hiện tốt các nhiệm được giao, qua đó có thể sớm thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, kéo giảm số việc và tiền phải THA, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân trong công tác phòng chống tham nhũng.