[links()]Tới đền, chùa, phủ nào cũng thấy hòm công đức “phong toả” khắp nơi. Trách nhiệm thì đùn đẩy nhau nhưng quyền lợi thu tiền từ công đức thì ai cũng muốn… “vơ vào”. Những đồng tiền ấy “trôi nổi” ở đâu, và ai sẽ “kiểm soát” nó?. Câu hỏi này đến nay vẫn chưa lời giải đáp.
“Tù mù” tiền công đức
Hiện nay, việc phân cấp quản lý những nơi thờ tự, di tích chưa thống nhất. Có nhiều chủ thể cùng tham gia quản lý: Uỷ ban nhân dân xã, phuờng, Ban quản lý di tích, nhà chùa, nhà đền, công ty khai thác dịch vụ.
Việc phân cấp quản lý lễ hội, di tích của từng địa phương cũng khác nhau, có nơi do UBND huyện, thị xã tổ chức và quản lý lễ hội, có nơi giao cho UBND xã, phường tổ chức và quản lý, có nơi do Ban quản lý chuyên môn, công ty kinh doanh khai thác các hoạt động vận chuyển và dịch vụ.
Hình minh họa |
Khó có thể biết, trong “mùa lễ” đầu năm: Chùa Hương,Yên Tử, Đền Cửa Ông, Di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Đền Trần (Nam Định); Đền Hùng, Đền Mẫu Âu Cơ, chợ Viềng và Phủ Giày, Nam Định…, một ngày tiền công đức là bao nhiêu vì theo những “tay hòm chìa khóa” thì không thể tiết lộ được.
Tuy vậy, ai cũng biết chắc đó là con số từ vài chục triệu đến hàng trăm triệu. Chính vì sự “mình ta biết” này, nên rất nhiều người hoài nghi, lượng tiền lớn ấy sẽ “đi đâu, về đâu”?.
Một số thành viên Ban lễ nghi của một ngôi đền ở xã Thạch Bàn, Thạch Hà, Hà Tĩnh, từng sống trong nghi ngờ khi vấn đề tài chính của đền không được công khai rõ ràng.
Theo lời “tố” của những người trong cuộc, trong suốt ba năm, số tiền tài trợ, công đức và các khoản đầu tư ở đền không ai biết cụ thể ra sao. Có địa phương còn áp dụng việc khoán tiền công đức, thậm chí, báo chí từng lên án chuyện người dân ở một địa phương của huyện Nghi Xuân phải nộp về xã 300 triệu đồng/năm sau khi trúng thầu quản lý một ngôi đền là di tích văn hoá cấp Quốc gia.
Có sự biển thủ tiền công đức?
Ông Ngô Hoài Chung, Phó Cục trưởng Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch còn cho biết thêm về sự “thỏa thuận” ngầm trong phân chia nguồn thu công đức, tiền giọt dầu đã dẫn đến trong một số đền chùa có quá nhiều khay đựng tiền giọt dầu, hòm công đức.
Nhiều nơi lập bàn thờ, đặt hòm công đức và đĩa để tiền giọt dầu tại di tích khiến du khách đặt quá nhiều tiền lẻ lộn xộn, làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh, gây sự phản cảm trong sinh hoạt lễ hội.
Việc sử dụng các nguồn thu từ công đức và dịch vụ chưa đúng mục đích, minh bạch, chưa tương xứng với nguồn kinh phí cung tiến và công đức của du khách. Nhiều người “hưởng lợi” nhưng hầu hết đều có suy nghĩ “cha chung không ai khóc” từ đó dẫn tới việc khi sử dụng chính những nguồn thu này phục vụ lại cho di tích theo quy định của Luật Di sản gặp nhiều khó khăn.
Việc quản lý, sử dụng các nguồn thu từ di tích và lễ hội, tiền công đức, tiền lễ, tiền giọt dầu vẫn còn phức tạp, nhiều chủ thể cùng tham gia quản lý, nhiều nơi chưa công khai, minh bạch trong việc thu - chi và sử dụng. Thống kê chưa đầy đủ, mùa lễ hội 2012, số tiền công đức thu được lên tới 297,8 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc quản lý còn chưa thống nhất ở các địa phương dẫn đến số tiền này chưa được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. Tình trạng các điểm di tích đặt nhiều hòm công đức vẫn diễn ra. |
Có nơi còn “khoán” tiền công đức để “nộp tô” cho địa phương. Di tích Đền Ông Hoàng Mười ở Nghệ An là một ví dụ.
Những năm trước, mỗi năm, tiền công đức ở nơi này được xã “khoán trắng” là 600 triệu đồng. Năm 2012, xã “lên giá” với mức “khoán” là 900 triệu đồng. Sau bao nhiêu năm, việc ‘khoán” luôn “vấp” phải sự phản đối của rất nhiều người. Bởi nó đã làm sai lệch bản chất tâm linh, linh thiêng nơi đền, chùa.
Làm sao biết được năm nay đền thu được bao nhiêu mà lại “khoán”?. Vì bị “khoán” nên các di tích buộc phải nghĩ ra nhiều trò thương mại hoá để cho đủ chỉ tiêu và khi đủ rồi thì làm sao để tiếp tục vượt “khoán”?. Cứ như thế sai phạm nối tiếp sai phạm làm cho nguồn công đức bị biến tướng đi, lòng tin của người công đức cũng bị giảm sút.
Bao giỡ mới “ngã ngũ” thông tư?
Để quản lý tiền công đức được hiệu quả, một Thông tư đang các cơ quan chức năng của Bộ VH-TT-DL soạn thảo, là các quy định quản lý, chế tài rõ ràng về việc sử dụng tiền công đức như thế nào, cho những nội dung cụ thể gì.
Thêm đó, Thông tư cũng sẽ đưa ra quy định về cơ chế thanh quyết toán, thẩm quyền xử lý liên quan đến việc chi tiêu tiền công đức.
Ngoài ra, quy định thêm việc tiền công đức khi đưa vào trùng tu, tôn tạo, phải tuân thủ sát sao mọi quy định của Luật di sản. Tiền công đức là tiền của dân, đóng góp cho di tích, các hoạt động xã hội, chứ không phải cho cá nhân hay một nhóm người nào đó, nên phải được quản lý theo các chế độ, quy định, chứ không thể để trôi nổi.
Dự kiến, thời gian tới, sẽ có vài cuộc hội thảo lấy lý kiến của các của các cấp, các ngành, của các chủ thể quản lý, người dân thì nội dung Thông tư ấy mới được “ngã ngũ”.
Đây không phải là lần đầu tiên việc quản lý hòm công đức được “xới” lên. Trước đó, Chỉ thị số 16/CT của Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch nhằm tăng cường công tác quản lý hoạt động văn hoá, tín ngưỡng tại di tích trong đó có nội dung, “mỗi di tích chỉ nên đặt một hoặc tối đa ba hòm công đức”.
Thế nhưng, qua hơn 2 năm “có mặt” của Chỉ thị, nhiều di tích, chùa, đền, các hòm công đức vẫn “bủa vây” những nơi này. Thậm chí, chỉ có một ngôi đền nhỏ mà có tới… 25 hòm công đức “bày binh, bố trận”. Ví như, Lễ hội đền Cổ Loa khai hội từ ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch Quý Tỵ. Tại đây, nhiều du khách không khỏi phiền lòng bởi việc BTC bố trí quá nhiều hòm công đức trong khu di tích.
Thực trạng trên khiến nhiều du khách tỏ ra lúng túng bởi tiền lễ phải bỏ quá nhiều chỗ, trong khi đó, tại nội điện, ngoài việc đặt lễ trên ban thờ thì còn nhiều hòm công đức được bố trí gần ban thờ và cơ số hòm công đức khác được đặt riêng tại bàn có nhân viên trực.
Chỉ tính riêng trong điện thờ Công chúa Mỵ Châu cũng có không dưới 3 hòm công đức... khiến nhiều người có cảm giác bị “tính toán” vì chỗ nào cũng phải dùng đến tiền. Có thể thấy rằng, Chỉ thị này đã bị “mất thiêng” khi đi vào cuộc sống.
Chính vì thế, câu hỏi đặt ra, sẽ rất nhiều thời gian và công sức để Thông tư quản lý hòm công đức ra đời, nhưng liệu nó có cùng “số phận” như Chỉ thị kia?.
Theo ông Trương Công Đức, Trưởng Ban quản lý Phủ Tây Hồ, để việc quản lý tiền công đức được minh bạch, Ban quản lý di tích nên thực hiện kiểm kê nguồn công đức và chế độ báo cáo với các cấp theo quy định.
Công khai nguồn thu, chi công đức là công việc rất cần thiết trong hoạt động khai thác, quản lý, sử dụng nguồn công đức tại các di tích lịch sử văn hoá - danh thắng.
Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch cần sớm có văn bản hướng dẫn các cơ sở tín ngưỡng quản lý- chi tiêu công đức một cách hợp lý, đúng nơi, đúng chỗ; ngoài việc tu bổ di tích, cần khuyến khích các cơ sở tâm linh làm công tác từ thiện: giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống… Có như vậy, tiền công đức của người dân mới thực sự có giá trị.
Dương Châu