Dự thảo Luật phòng, chống mua bán người đang được nhiều người kỳ vọng trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu trong trận tuyến đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người. Song dự thảo Luật cần bảo đảm phù hợp với thực tiễn để có thể phát huy hiệu quả khi đưa vào cuộc sống.
Trên thực tế, đối tượng bị mua bán chủ yếu vẫn là phụ nữ và trẻ em gái nhằm mục đích phục vụ cho các hoạt động mại dâm, kết hôn và bóc lột sức lao động. Song không chỉ có phụ nữ mà nam giới cũng đã và đang trở thành nạn nhân bị mua bán với mục đích chính là để bóc lột lao động (đối với nam giới trong độ tuổi lao động) và làm con nuôi (đối với trẻ em nam). Dù là nam giới hay nữ giới, khi bị trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người đều bị tổn thương; song so với nạn nhân là nam giới, nạn nhân là phụ nữ và trẻ em gái thường bị tổn thương nặng nề hơn cả về thể chất và tâm lý, do đó quá trình phục hồi của họ cũng lâu hơn và khó khăn hơn. Việc hỗ trợ cho nạn nhân nữ do vậy cũng đòi hỏi phải được quan tâm nhiều hơn ở cả góc độ đầu tư kinh phí và nguồn nhân lực, đặc biệt là các cán bộ xã hội có kiến thức về bình đẳng giới và kỹ năng giao tiếp, làm việc với nữ giới. Xuất phát từ thực tế đó, dự thảo Luật cần nghiên cứu để đưa ra các biện pháp tuyên truyền, phổ biến các biện pháp phòng ngừa, chế tài xử lý, hỗ trợ nạn nhân căn cứ vào yếu tố giới tính một cách hợp lý nhằm giúp cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người ở nước ta hiệu quả hơn. Theo dự thảo Luật phòng, chống mua bán người sẽ chỉ cung cấp các hoạt động hỗ trợ cho những nạn nhân (đã được tiếp nhận) hoặc người cần được xác minh là nạn nhân bị mua bán. Tuy nhiên, nếu quy định như vậy sẽ bỏ lọt một số lượng lớn những nạn nhân khác. Vì theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, mỗi năm, cơ quan chức năng xử lý 350-400 vụ mua bán người với gần 1.000 nạn nhân. Nhưng có tới 60% nạn nhân bị mua bán tự giải thoát, tự trở về mà không làm thủ tục khai báo, đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể, tính đến tháng 5-2010 số nạn nhân là phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về là 3.190 trường hợp, trong số đó 60% nạn nhân tự trở về, 25% được giải cứu, 15% tiếp nhận chính thức. Vì vậy, Dự thảo Luật không nên bó hẹp chỉ hỗ trợ cho nạn nhân trong các vụ án (đã được đưa vào quá trình tố tụng). Nhiều vụ án mua bán người dù chưa khởi tố nhưng chắc chắn vẫn có nạn nhân và họ cũng cần hỗ trợ để tái hòa nhập cộng đồng. Về vấn đề, có nên thành lập các cơ sở hỗ trợ với chức năng cụ thể hay đưa nạn nhân vào các Trung tâm bảo trợ xã hội cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nạn nhân bị mua bán sau có lý do chính đáng chưa thể về nơi cư trú thì nên đưa họ vào các cơ sở hỗ trợ, không nên đưa vào Trung tâm Bảo trợ xã hội (BTXH) vì những người này không thuộc đối tượng của Trung tâm BTXH. Hơn nữa, không ít ý kiến cũng cho rằng, việc thành lập các cơ sở hỗ trợ với chức năng cụ thể sẽ tránh được sự đùn đẩy trách nhiệm, cũng như tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan tiếp nhận nạn nhân khi chuyển giao nạn nhân. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng: nên tận dụng các Trung tâm BTXH trong việc hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về. Vì mặc dù tội phạm mua bán người diễn ra trên toàn quốc, nhưng lại không thường xuyên, liên tục. Nếu xây dựng các cơ sở hỗ trợ nạn nhân độc lập ở các tỉnh, thành phố sẽ gây tốn kém, lãng phí, không tập trung. Còn nếu tập trung cho các Trung tâm BTXH sẽ có hiệu quả hơn vì mua bán người cũng là một vấn đề xã hội. Dự thảo Luật cũng dự kiến sẽ cho phép các tổ chức, cá nhân thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân hoạt động vì mục đích nhân đạo, phi lợi nhuận nhằm huy động nguồn lực của toàn xã hội vào quá trình hỗ trợ nạn nhân bị mua bán trở về.