|
Không biết từ bao giờ, nhân loại đã nói đến đá, đã đưa đá vào văn chương và nghệ thuật. Con người tìm đến đá, trò chuyện với đá, xem đá như người bạn tâm giao. Nếu tập hợp đầy đủ, chắc rằng chúng ta sẽ có nhiều tác phẩm hay về đá.
Cuộc đời với bao lo toan, bận rộn, khiến cho con người nhiều lúc không bình tâm để nhìn và suy ngẫm về sự lặng im đầy chất triết học của đá. Đâu phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trãi khi lui về Côn Sơn thì viết Côn Sơn ca với những dòng thơ:
.. Côn Sơn có đá rêu phơi
Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm
Trong ghềnh thông mọc như nêm
Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm…
Sau này, trong dịp kỷ niệm 600 năm Nguyễn Trãi (1380-1980), nhà thơ Thanh Thảo đã viết:
Lui về Côn Sơn tránh chốn bụi lầm
Gối đầu lên hòn đá thay vì danh vọng
Con thuyền ấy vẫn không nguôi nhớ sóng
Lật mỗi trang thơ biển từng lúc hiện về...
(Về cái chết của Nguyễn Trãi)
Nguyễn Trãi nhiều lần đưa hình tượng đá vào thơ ca của mình như một cách bày tỏ tâm trạng, nỗi niềm, suy tư về thế thái nhân tình. Bài thơ Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác (Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác), Ức Trai viết:
Hà thì kết ốc vân phong hạ?
Cấp giản phanh trà chẫm thạch miên.
(Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây,
Để múc nước khe pha chè và gối đầu đá ngủ)
Bà Huyện Thanh Quan với Thăng Long thành hoài cổ đã suy ngẫm về sự phế hưng của một triều đại, ngẫm về bao sự thế ở đời, nữ sĩ viết:
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương...
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã 14 lần sử dụng từ “đá”, nào là: lệ rơi thấm đá, cho lăn lóc đá, đá biết tuổi vàng, đá cũng nát gan, đá nát vàng phai, đá vàng thủy chung,… với nhiều ngữ cảnh và cung bậc khác nhau, có lúc để chỉ cái cứng bền, trung thành trong cuộc sống, có lúc để chỉ cái kiên trinh, bền chặt trong tình yêu.
Những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, trước những hy sinh, mất mát của cả dân tộc, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc vào thơ hình ảnh:
…Dân tộc ấy có gì kỳ lạ
Một nước bao nhiêu là đá Vọng phu
Những năm tháng đợi chờ, những thập kỷ đợi chờ
Chỉ một là người, hai là hóa đá
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ…
Trong văn học Việt Nam, hình tượng “vọng phu” trở thành mô-típ nghệ thuật, với nhiều cách nhìn, cách thể hiện khác nhau. Bài Vọng phu của Chế Lan Viên là một ví dụ. Đây là một bài thơ hay, nhiều tầng nghĩa:
Là tượng đá của những thời binh lửa
Nàng vọng phu đầu sông hơn gì nàng Tô Thị cuối sông…
Người ra đi chắc gì quay lại nữa
Trên đầu non lòng đá vẫn kiên trinh
Nhà thơ nữ Thu Nguyệt có bài thơ Từ lúc ấy diễn tả nhiều cung bậc của tình yêu gắn liền với đá. Đá đã trở thành đối tượng nghệ thuật, thành nhân vật trữ tình:
Em ngồi hóa đá thành thơ
Trả anh ngày tháng anh chờ lúc yêu
Em ngồi hóa đá thành chiều
Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa
Em ngồi hóa đá thành mưa
Trả anh cái phút anh đưa qua cầu
Xa nào anh có hay đâu
Đá từ lúc ấy bây giờ hóa em.
Cái hay của bài thơ là từ “hóa đá” giờ thành “hóa em”. Đá đã hóa thành chiều, thành mưa để trả tháng ngày chờ đợi, trả cái nụ hôn liều, trả cái phút đưa nhau qua cầu.
Cũng viết về tình yêu, Thu Bồn trong bài thơ Tạm biệt Huế đã viết:
Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
Bài thơ viết về Huế (1980) của Thu Bồn đã nói rất hay về nón Huế, áo dài Huế, đền đài Huế, sông và cầu xứ Huế, một nơi mà: “một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu”. Thực và mơ đan cài vào nhau, dùng dằng như sự lững lờ của sông Hương. Cuối cùng, để giữ Huế, nhà thơ đã tự nguyện “hóa đá phía bên kia”.
Trần Đăng Khoa có bài thơ Trước đá Mỵ Châu được nhiều người đọc yêu thích. Bài thơ viết tại Cổ Loa, ngày 12-3-1974, lúc nhà thơ 16 tuổi. Trước khi vào bài thơ, Trần Đăng Khoa có lời dẫn giải: “Ở bãi biển Thanh Hóa nổi lên một phiến đá hình cô gái cụt đầu. Nhân dân cho đó là nàng Mỵ Châu bị cha chém chết, hóa đá, nên đã dùng võng đào đưa “nàng” về Đền Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội”. Bài thơ mở đầu:
Người dân nào xưa đưa em về đây
Cho em gặp bố
Người bố mất nỏ thần, giận em, ruồng bỏ
Nhưng nhân dân mình không nỡ bỏ em…
Bao đời nay, nhân dân rất độ lượng với Mỵ Châu, hiểu rõ sự trong trắng và tha thứ cho lỗi lầm của nàng:
Nhớ vận nước có một thời chìm nổi
Bắt đầu từ một tình yêu
Em hóa đá ở trong truyền thuyết
Cho bao cô gái sau em
Không còn phải hóa đá trong đời.
Chế Lan Viên có một tâp thơ, mang tên Hoa trên đá (NXB Văn học, HN, 1984). Mở đầu tập thơ, tác giả lý giải về việc đặt tên bằng một bài Đề từ, dài đến 10 khổ. Bài thơ bắt đầu:
Đời ngoài tuổi năm mươi
Mong gì hương sắc lạ
Mọc chùm hoa trên đá
Mùa xuân đâu chịu lùi.
Chế Lan Viên biết cái hữu hạn của đời người: Anh như ông vua Thục/ Bị đuổi bởi thời gian/ Trước mắt là bể lớn/ Sau lưng đất không còn. Viết nhanh lên cho kịp/ Lũ sắp ập về kia… Hiểu tâm trạng này của Chế Lan Viên, ta mới hiểu vì sao những năm cuối đời, nhà thơ như bị thời gian xua đuổi: Viết đi! Viết đi ! Viết ! Viết/ Thời gian nước xiết. Cuối cùng, nhà thơ cũng hiểu và tâm sự với đá:
…Trong giấc ngủ vô cùng của Đá
Cùng vô hạn đêm khuya và vô hạn sao trời…
Ta bản lĩnh thì đá kia bản lĩnh, mà ta
cô đơn thì đá hóa cô đơn.
Ngọn Thi sơn Chế Lan Viên đã trở về Cõi Quên, đã đi hết thời gian ở trên trái đất, đã gửi lại cho đời bao giọt nước mắt thi ca cùng với nhiều hình tượng đá đầy chất triết học, triết luận, vô cùng đa sắc, đa thanh.
HUỲNH VĂN HOA