Chuyên gia đầu ngành hướng dẫn cách điều trị thoát vị đĩa đệm

PGS.TS.BS Trần Công Duyệt tư vấn cho một bệnh nhân điều trị TVĐĐ.
PGS.TS.BS Trần Công Duyệt tư vấn cho một bệnh nhân điều trị TVĐĐ.
(PLO) - Thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ) là chứng bệnh thường gặp nhất của các bệnh lý liên quan đến cột sống. Người bệnh bị ám ảnh bởi những cơn đau dai dẳng và kéo dài, số người mắc bệnh ngày càng tăng. Pháp luật & Thời đại đã có cuộc trao đổi với PGS.TS.BS Trần Công Duyệt, Viện trưởng Viện ngoại khoa Laser về vấn đề này
Bác sĩ đánh giá thế nào về tình trạng bệnh TVĐĐ hiện nay?
TVĐĐ thuộc bệnh lý thường gặp nhất trong thoái hoá cuộc sống, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sinh hoạt con người. Theo một con số thống kê, khoảng 1/3 dân số trên tuổi trưởng thành bị TVĐĐ. Trong đó có 1% bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng ở mức cần điều trị tích cực. 
Ở nước ta, kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả thuộc trường ĐH Y khoa và bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội) cho thấy gần 1% dân số mắc TVĐĐ, nghĩa là cứ 100 người thì có 1 người mắc bệnh. Bệnh nhân TVĐĐ đang có xu hướng tăng dần vì các lí do: Tuổi thọ dân số càng cao tỉ lệ thuận với bệnh TVĐĐ (30 tuổi trở lên bắt đầu suy thoái cột sống), tác động từ môi trường làm việc. Nguyên nhân chính gây TVĐĐ thường do quá trình lão hoá sinh lý và các rối loạn của một số bệnh lý trong nhiễm khuẩn, bệnh về khớp, rối loạn chuyển hoá cùng các vi chấn thương của lực tải trọng lên đĩa đệm hàng ngày.
Làm thế nào biết bị mắc bệnh TVĐĐ, thưa bác sĩ?
Ở người trưởng thành, chiều dày đĩa đệm cột sống cổ mỏng nhất vào khoảng 3-4mm, lưng là 5-6mm, thắt lưng là 8-9mm. Cấu trúc đĩa đệm gồm ba phần: Bao xơ, nhân nhầy và mâm sụn. Có thể coi đĩa đệm như một hệ thuỷ lực kín, gồm bao xơ tương đối cứng và dai, nhân nhầy chứa nhiều nước và một loại chất keo có độ nhớt cao bên trong. TVĐĐ xảy ra khi bao xơ vòng sợi bị rạn rách một phần hoặc mất khả năng chun giãn, tạo điều kiện cho nhân nhầy dịch chuyển khỏi vị trí. Sự dịch chuyển này có thể gây ra chèn ép màng cứng, rễ dây thần kinh hoặc chèn ép tuỷ.
Chính vì chèn ép màng cứng, rễ dây thần kinh hoặc chèn ép tuỷ dẫn đến các triệu chứng đau, tê, teo hay liệt cơ ở các vùng phân bổ của rễ thần kinh. Rõ nhất là tứ chi. Nặng hơn nữa là triệu chứng tiểu tiện mất tự chủ. 
Với những triệu chứng như trên, ai cũng có thể tự kiểm tra xem mình có nguy cơ bị TVĐĐ hay không. Tuy nhiên, để chắc chắn cần tiến hành các xét nghiệm chụp X-quang, CT scanner hoặc MRI. Nhiều người nghĩ rằng bệnh TVĐĐ thường xảy ra ở người dân lao động vùng nông thôn do lao động nặng nhọc. Tuy nhiên, thực tế bệnh này phổ biến tại các khu vực thành thị. Bệnh nhân chủ yếu là các lao động khuân vác nặng, làm việc trong môi trường ngồi một chỗ thời gian dài hay giới tài xế. 
Bệnh nhân TVĐĐ cần điều trị như thế nào?
Thường có ba phương pháp điều trị: Điều trị bảo tồn, điều trị bằng mổ hở và điều trị ít xâm lấn hay còn gọi là vi sang thương. Việc điều trị bảo tồn dự phòng không thể coi nhẹ ngay cả các bệnh nhân đã được can thiệp bằng ngoại khoa (mổ hở, điều trị ít xâm lấn). Tuy vậy, các phương pháp điều trị bảo tồn như: Nghỉ ngơi, sử dụng các loại thuốc, châm cứu, vật lý trị liệu, thuỷ châm, nắm bóp không phải lúc nào cũng cho kết quả như mong muốn. Khi các phương pháp điều trị bảo tồn không mang lại kết quả, lúc đó bệnh nhân có thể được chỉ định can thiệp bằng phương pháp mổ hở hoặc ít xâm lấn.
Mổ hở là phương pháp phổ biến, được thực hiện đối với bệnh nhân TVĐĐ đầu tiên vào năm 1934 đến nay vẫn được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên phương pháp mổ hở ẩn chứa nhiều rủi ro và phá huỷ một phần cấu trúc cột sống. Hơn nữa, tâm lý người bệnh thường sợ phẫu thuật.
Cùng với sự phát triển của khoa học, một số phương pháp can thiệp ít xâm lấn được áp dụng như phẫu thuật nội soi, hoá dược tiêu nhân nhầy, hút cắt đĩa đệm qua da, thấu nhiệt bằng sóng radio và giảm áp lực đĩa đệm cột sống bằng laser.
Bác sĩ có lời khuyên nào cho người bệnh TVĐĐ?
Những người nhận thấy có nguy cơ bị TVĐĐ cần phải điều trị dự phòng sớm thông qua chế độ dinh dưỡng, luyện tập, sinh hoạt với phương châm: Sống khoẻ sống đẹp. Nhất là các bạn trẻ, không nên ngồi một tư thế quá lâu, thực hiện chế độ vận động, thể dục hợp lý lồng ghép vào hoạt động sinh hoạt, công việc hàng ngày.
Còn đối với bệnh nhân TVĐĐ, phải điều trị từ sớm bằng các phương pháp điều trị bảo tồn. Nên nhớ bệnh càng nặng càng khó điều trị. Nên chọn phương pháp điều trị ít gây biến chứng. Sau khi điều trị bằng các phương pháp trên, bệnh nhân cần tiếp tục điều trị phục hồi chức năng cho dứt điểm, tránh tình trạng tái phát.
Bác sĩ có thể so sánh phương pháp mổ hở và dùng tia laser?
Phương pháp toa laser khá hiệu quả, có nhiều ưu điểm như: Ít xâm lấn, không phải phẫu thuật. Người bệnh chỉ cần gây tê tại vùng điều trị là đủ. Trong quá trình điều trị, người bệnh vẫn tỉnh táo. Không tạo sẹo, không gây xơ dính thần kinh, không làm mất vững cột sống. Những người già, người có bệnh mãn tính vẫn có thể áp dụng. Sau khi điều trị, người bệnh trở lại sinh hoạt bình thường, không phải nằm nghỉ dưỡng như trường hợp mổ hở. Mặt khác có thể thực hiện cùng lúc ở nhiều tầng, nhiều vị trí cách xa nhau mà không cần truyền máu, không sợ bị nhiễm trùng. Điểm tiêu cực là phương pháp dùng tia laser chống chỉ định khi khối thoát vị quá lớn dễ gây chèn ép tủy hoặc các biến chứng khác.
Xin cám ơn bác sĩ về cuộc trò chuyện!
PGS.TS.BS Trần Công Duyệt tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội năm 1968. Từ năm 1967 - 1974 là bác sỹ Quân y của Sư đoàn 304 phục vụ tại chiến trường Quảng Trị với cương vị Tiểu đoàn trưởng quân y. Năm 1974 - 1980 là nghiên cứu sinh tại Viện Hàn lâm Ngoại khoa Tim mạch Moscow - Liên xô. Ông từng giữ chức chủ nhiệm khoa y học Laser và y học thực nghiệm tại Viện Quân y 108 - Hà Nội. Từ năm 1989 – 2008 đảm nhận cương vị Viện trưởng Viện vật lý y sinh học thuộc Trung tâm Khoa học và Công nghệ, Bộ Quốc phòng. Hiện nay BS Duyệt là Viện trưởng Viện Ngoại khoa Laser TP.HCM, Chủ tịch Hội Laser y học và Laser Ngoại khoa TP.HCM.

Tin cùng chuyên mục

Nỗi lo ngại toàn cầu từ Virus HMPV ở Trung Quốc sau 5 năm dịch COVID-19?

Nỗi lo ngại toàn cầu từ Virus HMPV ở Trung Quốc sau 5 năm dịch COVID-19?

(PLVN) - Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc gần đây đã báo cáo sự gia tăng các ca bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, bao gồm cả HMPV, vào mùa đông. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chưa coi đây là tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu, nhưng sự gia tăng ca bệnh đã thúc đẩy các cơ quan chức năng tăng cường hệ thống giám sát.

Đọc thêm

Khi đổi mới sáng tạo thúc đẩy phát triển ngành Y tế

Các bạn trẻ tham quan Triển lãm giới thiệu thành tựu công nghệ ngành Y tế năm 2024. (Ảnh: MOST)
(PLVN) - Tiến bộ trong công nghệ sinh học và chuyển đổi số không chỉ hỗ trợ việc nghiên cứu, phát triển thuốc, vaccine, mà còn giúp cải thiện việc chẩn đoán, điều trị bệnh, cũng như phát triển các phương pháp điều trị tiên tiến, nâng cao chất lượng sống cho người dân.

Rủi ro tiềm ẩn trong “cơn sốt” làm đẹp đón Tết

Các bác sĩ xử trí một ca biến chứng sau nâng mũi làm đẹp. (Ảnh: BV Trung ương Quân đội 108)
(PLVN) - Trong vòng một tháng qua, các bệnh viện đã tiếp nhận và điều trị nhiều trường hợp biến chứng nghiêm trọng do làm đẹp. Thậm chí, một số ca rơi vào tình trạng nguy kịch, tưởng chừng không thể vượt qua “cửa tử”.

Câu chuyện bảo hiểm y tế khi đồng bào 'lên vùng'

Chị Rơ Ô H’Hóp trong một buổi truyền thông về bệnh lao.
(PLVN) - Việt Nam là một trong 30 quốc gia có gánh nặng bệnh lao và lao kháng thuốc cao nhất trên thế giới. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính, năm 2020 có trên 172.000 người mắc và 10.400 người chết vì bệnh lao tại Việt Nam…

Ngành Y tế nỗ lực bảo đảm nguồn cung vaccine cho người dân

Chương trình TCMR làm thay đổi về cơ bản cơ cấu bệnh tật ở trẻ em Việt Nam. (Ảnh: Cục Y tế dự phòng)
(PLVN) - Được đánh giá là một trong những chương trình về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng thành công nhất hiện nay ở Việt Nam, Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ, nâng cao sức khỏe trẻ em cũng như người dân trên cả nước. Thành quả này có được nhờ vào sự nỗ lực không ngừng của ngành Y tế, đặc biệt trong việc thực hiện các giải pháp đảm bảo nguồn cung vaccine ổn định cho người dân, ngay cả trong bối cảnh khan hiếm vaccine.

Hóa giải 'nỗi oan' vaccine gây bệnh

Tiêm vaccine đầy đủ được xem là biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ sức khỏe cá nhân và cộng đồng. (Ảnh: Sở Y tế Nghệ An)
(PLVN) - Trong bối cảnh các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, sởi, bạch hầu và ho gà đang gia tăng, tiêm chủng đầy đủ được xem là biện pháp hiệu quả nhất để bảo vệ sức khỏe cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, những thông tin sai lệch về vaccine đã gây ra không ít lo ngại, khiến công tác tiêm chủng, nâng cao sức đề kháng cho người dân gặp nhiều khó khăn.

Đừng cổ súy lối sống thuận tự nhiên, bài trừ tiêm vaccine

Tiêm vaccine không chỉ là quyền lợi cá nhân, đó còn là nghĩa vụ xã hội. (Ảnh: CP)
(PLVN) - Những năm qua, trào lưu sống thuận tự nhiên lan rộng, thu hút một bộ phận người tin rằng cơ thể con người có khả năng “tự chữa lành”, không cần đến thuốc hay can thiệp y tế. Biến tướng nguy hiểm nhất của xu hướng này chính là việc bài trừ vaccine một cách cực đoan, lan truyền những kiến thức y tế lệch lạc trong cộng đồng.

Chủ động đối phó dịch bệnh mới nổi, tái nổi

Cả nước đối mặt với sự gia tăng liên tục ca mắc sốt xuất huyết tại các thành phố lớn thời gian qua. (Ảnh: VNVC).
(PLVN) - Thế giới đang đối mặt với nguy cơ gia tăng các bệnh truyền nhiễm mới nổi và tái bùng phát. Những căn bệnh này xuất phát từ mối tương tác giữa con người, động vật và hệ sinh thái, không chỉ đe dọa sức khỏe cộng đồng mà còn gây ra những hệ quả nghiêm trọng đối với kinh tế, xã hội. Việt Nam, với đặc điểm khí hậu nhiệt đới và nền kinh tế đang phát triển, cũng không nằm ngoài nguy cơ này.

Thầy thuốc trẻ tình nguyện thời số hóa

Chương trình khám sức khỏe miễn phí tại lễ mít tinh. (Ảnh : B.Anh)
(PLVN) - Chương trình “Tiếp cận y tế toàn diện” là sáng kiến không chỉ thể hiện khát vọng nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe mà còn khẳng định vai trò trung tâm của thế hệ trẻ. Đặc biệt là các thầy thuốc trẻ, trong sự nghiệp phát triển bền vững của ngành Y tế Việt Nam.