5 kịch bản cho biển Đông

5 kịch bản cho biển Đông
(PLO) -Với bối cảnh hiện nay, chúng tôi cho rằng có năm kịch bản cho tranh chấp Biển Đông trong 10 năm tới.

TQ không đưa được chứng cứ nào
Trước luật pháp quốc tế, chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý là yếu tố thuyết phục nhất.
Tuy nhiên, chuyên gia luật pháp quốc tế cũng nhận định, trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ, trên đất liền hay trên biển, khả năng để các bên có chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý không cao.
Theo Nuno Sergio Marques Antunes, chuyên gia Bồ Đào Nha về tranh chấp hàng hải quốc tế, “tranh chấp dựa duy nhất trên lập luận pháp lý ... tương đối hiếm. Tuyệt đại đa số các cuộc tranh chấp lãnh thổ thiếu lập luận pháp lý có ý nghĩa. Trong phần lớn các trường hợp, những lập luận không mang tính pháp lý nổi bật hơn”.
Mỗi bên trong tranh chấp lãnh thổ phải tận dụng tất cả chứng cứ nghiêm túc bất kể hình thức nào, như Brian Taylor Sumner, chuyên gia Mỹ về luật pháp quốc tế khẳng định bao gồm 9 loại khác nhau, trong đó có chứng cứ lịch sử.
Chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Trung Quốc, dựa vào cổ sử hay ngay cả dựa vào các sự kiện xảy ra trong 60 năm qua chứa đựng nhiều sai lầm, lắm lúc với chủ đích để đánh lừa dư luận.
Trong khi một số học giả phương Tây, do dựa vào một phần hay toàn phần cổ sử của Trung Quốc, để đưa quan điểm thuận lợi cho nước này, giới nghiên cứu của Việt Nam đã phân tích những thiếu sót nghiêm trọng trong cổ sử Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa- Trường Sa của Trung Quốc.
Trong tác phẩm tiếng Anh xuất bản cuối năm 2013, Wu Shicun sử dụng các lập luận sau để biện minh cho đòi hỏi chủ quyền biển đảo trên Biển Đông. Trung Quốc là nước khám phá, nước đặt tên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nước nhận triều cống từ phong kiến Việt Nam, VNDCCH từng công nhận chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc, CHXHCNVN chỉ kế thừa duy nhất từ VNDCCH, v.v.
Thử xem các lập luận này có giá trị đến đâu?
Trước tiên, nếu cho rằng Trung Quốc là nước khám phá hay nước đặt tên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa nên có chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, thì lập luận này không thỏa mãn các tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế về quyền chiếm hữu đề cập ở trên.
Đồng thời, do là nước nhận triều cống từ phong kiến Việt Nam cho đến năm 1885, nên có chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa bị bác bỏ dựa trên chứng cứ lịch sử và dựa trên vụ kiện giữa Pháp và Anh về khu vực Minquiers-Ecrehos.
Lập luận nữa cho rằng, do VNDCCH từng công nhận chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa thuộc Trung Quốc và do CHXHCNVN chỉ kế thừa duy nhất từ VNDCCH nên Trung Quốc có chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, bị bác bỏ, dựa trên sự không thích ứng của nguyên tắc ngăn chặn (estoppel), quyền kế thừa của quốc gia theo luật pháp quốc tế và chứng cứ lịch sử trong quan hệ quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn 1954-1976.
Ngoài thoả mãn hai tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế trước thời điểm của Công ước Berlin, chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam trong tư liệu cổ phương Tây, trong hơn 200 năm từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX đặc biệt thoả mãn tiêu chuẩn nêu lên trong Công ước năm 1885 về nhận thức của cộng đồng thế giới đối với chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Trái lại, cho đến ngày nay, Trung Quốc không trình bày được chứng cứ lịch sử nào thuận lợi cho đòi hỏi chủ quyền của họ từ nguồn tư liệu cổ phương Tây trước thế kỷ XX.
Trung Quốc đề cập đến hai sự kiện: Kuo Sung-tao, Đại sứ Trung Hoa đầu tiên ở Anh vào khoảng năm 1876-1877 tuyên bố Hoàng Sa thuộc Trung Hoa, và Trung Hoa phản đối và ngăn chặn đoàn khảo sát Đức thực hiện công tác đo đạc ở Hoàng Sa và Trường Sa năm 1883.
Bên cạnh không có tư liệu độc lập kiểm chứng tính chính xác về tuyên bố của Kuo Sung- tao. Thực tế cho thấy năm 1885, Đức phổ biến bản đồ chi tiết khu vực Hoàng Sa mà họ đã khảo sát trong các năm 1881-1883.
So sánh với Trung Quốc, chứng cứ lịch sử về chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam rõ ràng, vững chắc hơn.
Tuy nhiên, do sự gián đoạn gần 20 năm trong nỗ lực nghiên cứu chủ quyền và giới thiệu nghiên cứu chủ quyền trước dư luận thế giới, và nhằm đảm bảo tính khoa học và nghiêm túc của nó, hồ sơ chứng cứ chủ quyền của Việt Nam còn cần sự quan tâm của giới chuyên gia và nghiên cứu, như người viết đề nghị năm 2011:
“Để khắc phục thiếu sót trong quá khứ, và để loại bỏ lỗ hổng trong lập luận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, nhà nước Việt Nam nên khẩn trương hỗ trợ giới nghiên cứu (độc lập cũng như trực thuộc bộ máy chính quyền), thúc đẩy tham khảo tư liệu ở Trung tâm Lưu trữ Quốc gia và từ các nguồn khác (kể cả ngoài nước), chuyển dịch những nghiên cứu đúng đắn từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài (cụ thể như tiếng Anh, tiếng Hoa), tư vấn chuyên gia ở ngoài nước về giải quyết tranh chấp lãnh thổ, đào tạo lớp người trẻ với chuyên môn nghiệp vụ cao, v.v.
 
5 kịch bản
Vào cuối tháng 9 năm 1975, trong cuộc họp giữa lãnh đạo hai nước, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa-Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau. Nhưng, sau gần 40 năm, tranh chấp vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.
Với bối cảnh hiện nay, chúng tôi cho rằng có năm kịch bản cho tranh chấp Biển Đông trong 10 năm tới:
Kịch bản thứ nhất, Trung Quốc sử dụng vũ lực để đánh chiếm một phần hay toàn bộ quần đảo Trường Sa, nhằm “giải quyết vấn đề tranh chấp và xác lập chủ quyền ở những hòn đảo và vùng lãnh hải trước năm 2020” như học giả Trung Quốc khẳng định và các nguồn thông tin khác cho biết.
Trong tranh chấp biển đảo, Trung Quốc từng sử dụng vũ lực với Đài Loan vào thập niên 1950, và sử dụng vũ lực với Việt Nam vào thập niên 1970 và thập niên 1980.
Cuộc phiêu lưu quân sự mới của Trung Quốc ở Trường Sa, nhằm kiểm soát toàn bộ các đảo, đá trong phạm vi “đường lưỡi bò”, sẽ gây mất an ninh, ổn định trên Biển Đông, ảnh hưởng đến lưu thông hàng hải của Mỹ, Nhật, Ấn Độ, v.v.
Không ai ngạc nhiên với nhận định là Trung Quốc đã theo sát diễn biến ở Ukraine và Crimea để đánh giá phản ứng và biện pháp đối phó của Mỹ và Liên hiệp Châu Âu đối với Nga.
Tuy nhiên, do khác biệt lớn với sự sáp nhập của Crimea vào Nga, kịch bản này đưa đến hậu quả kinh tế, quân sự, chính trị, v.v. có khả năng cao nằm ngoài mức dự đoán của lãnh đạo Trung Quốc.
Kịch bản thứ hai, Trung Quốc đồng ý để các toà án quốc tế giải quyết tranh chấp Biển Đông. Do sự yếu kém của Trung Quốc trong chứng cứ lịch sử và pháp lý về chủ quyền, do hành động sử dụng vũ lực năm 1974 và 1988 để chiếm đóng các đảo, đá ở Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam, và do chưa hội đủ điều kiện thuận lợi cho nguyên tắc “quieta non movere”, Trung Quốc phản đối luật hoá hay quốc tế hóa vấn đề biển Đông, kiên trì với chủ trương “đàm phán song phương”, “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Hơn ai hết, Trung Quốc hiểu rõ rằng họ mất nhiều hơn được khi phải đối diện với các toà án quốc tế.
Kịch bản thứ ba, Trung Quốc không sử dụng vũ lực nhưng tiếp tục chiến thuật kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp Biển Đông.
Dựa trên các nguyên tắc đã nêu lên trong luật pháp quốc tế, Trung Quốc củng cố vị trí của họ trên Biển Đông nhằm chiếm đóng vĩnh viễn các đảo hiện đang kiểm soát bất hợp pháp. Đây là kịch bản thuận lợi cho Trung Quốc và bất lợi cho Việt Nam, nếu Việt Nam không sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc trong thời gian tới.
Thực tế cho thấy Trung Quốc đã thành công trong hơn 20 năm qua khi áp lực nước có tranh chấp với Trung Quốc thực hiện “đối thoại hoà bình”, cho đến khi Philippines chính thức khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS đầu năm 2013.
Kịch bản thứ tư, Trung Quốc đẩy mạnh chiến thuật “tằm ăn dâu” trên Biển Đông. Họ tiếp tục hành xử chủ quyền ở các khu vực đang chiếm đóng bất hợp pháp, biến khu vực không tranh chấp thành khu vực tranh chấp, áp lực nước có tranh chấp với Trung Quốc thực hiện “đối thoại hoà bình” hay đi theo chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở khu vực “tranh chấp” mới.
Kịch bản này giúp cho Trung Quốc mở rộng ranh giới “đường lưỡi bò” nhưng họ không thể dự đoán được mọi phản ứng, bao gồm khả năng xung đột quân sự có giới hạn, với thành viên khối ASEAN, với Mỹ hay các đồng minh khác của Mỹ.
Kịch bản này bất lợi trên nhiều mặt cho Việt Nam. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200 km để kiểm soát, các đảo của Việt Nam hiện đang bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp sẽ trở thành vĩnh viễn của Trung Quốc, khu vực thuộc EEZ của Việt Nam, trở thành khu vực “tranh chấp” với Trung Quốc, nếu Việt Nam không sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp với Trung Quốc trong thời gian tới.
Kịch bản thứ năm, Trung Quốc đàm phán nghiêm chỉnh với Việt Nam (và với các nước ASEAN có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc) để giải quyết tranh chấp Biển Đông. Đây là kịch bản thuận lợi nhất cho Việt Nam và các nước khác nhưng bất lợi cho tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Các sự kiện liên quan đến Biển Đông từ đầu năm 2013 cho đến hôm nay cho thấy tình hình không cho phép Việt Nam chần chừ, trì hoãn trong nỗ lực giải quyết tranh chấp biển đảo với Trung Quốc tận gốc rễ.
Còn nữa...
Theo Thái Văn Cầu
Vietnamnet
(Tác giả là Chuyên gia Khoa học Không gian, sống tại Mỹ)

Đọc thêm

Cải cách thể chế: Đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế - xã hội

Năm 2023 là năm thứ 12 liên tiếp Bộ Nội vụ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan triển khai xác định, công bố Chỉ số cải cách hành chính của các Bộ, các tỉnh. (Nguồn ảnh: Chinhphu.vn).
(PLVN) - Bộ Tư pháp dẫn đầu bảng chỉ số cải cách hành chính (CCHC) Khối các Bộ, cơ quan ngang Bộ - đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị công bố Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2023 (SIPAS) và Chỉ số cải cách hành chính năm 2023 (PAR INDEX) của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, TP trực thuộc Trung ương do Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ tổ chức sáng 17/4.

Tổng duyệt diễu binh kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ

Khối Quân kỳ do Trung tướng Nguyễn Trọng Bình, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ huy.
(PLVN) - Hôm qua (17/4), tại Trung tâm Huấn luyện quân sự quốc gia 4 (Hà Nội), Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì tổng duyệt diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (ĐBP).

Hội đồng nhân dân các TP trực thuộc trung ương: Phát huy tốt vai trò giám sát trong thực hiện thí điểm chính quyền đô thị

Quang cảnh một kỳ họp của HĐND TP Hà Nội. (Ảnh laodongthudo.vn)
(PLVN) - Thực hiện thí điểm chính quyền đô thị tại một số TP trực thuộc Trung ương là chủ trương đúng đắn, góp phần khắc phục hạn chế, bất cập trong quản lý, điều hành trước đây, khai thác lợi thế để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Trong điều kiện thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị, HĐND, đại biểu HĐND các địa phương này đã phát huy tốt vai trò giám sát của cơ quan dân cử, bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương đạt hiệu quả, minh bạch và trung thực.

Bộ trưởng Bộ Công an viếng nghĩa trang liệt sĩ Đồi 82

Đại tướng Tô Lâm dâng hương tưởng niệm, tri ân các anh hùng liệt sĩ. (Ảnh: Dũng Tiến)
(PLVN) - Nhân dịp kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024), sáng 17/4, Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an đã dẫn đầu Đoàn công tác đến viếng nghĩa trang liệt sĩ Đồi 82 và dâng hương tại Khu di tích lịch sử Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam.

Dự án Luật Tư pháp người chưa thành niên: Rà soát để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng phát biểu tại phiên họp.
(PLVN) - Ngày 17/4, cho ý kiến về dự án Luật Tư pháp người chưa thành niên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đề nghị các cơ quan tiếp tục rà soát các luật có liên quan để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, các luật khác trong lĩnh vực tư pháp.

Thủ tướng: Không bao giờ quên những người làm nên 'cột mốc vàng' lịch sử Điện Biên Phủ

Thủ tướng: Không bao giờ quên những người làm nên 'cột mốc vàng' lịch sử Điện Biên Phủ
Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, chúng ta không bao giờ quên các chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ "dù bom đạn xương tan, thịt nát/Không sờn lòng, không tiếc tuổi xuân" để góp phần làm nên chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", "một dấu mốc bằng vàng chói lọi" trong lịch sử, sau 70 năm vẫn luôn là động lực mạnh mẽ, tiếp thêm sức mạnh to lớn, niềm tin vững chắc cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta.

70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ: Tên của các anh, các chị đã thành tên non sông, đất nước

Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến phát biểu tại Chương trình. Ảnh: Quang Vinh.
(PLVN) -Sau 70 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, vẫn còn nhiều liệt sỹ chưa xác định được thông tin, danh tính. Máu xương của các anh, các chị đã hóa vào lòng đất thiêng Tây Bắc, Điện Biên để hôm nay đất nước nở hoa độc lập, kết trái tự do; Nhân dân được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc.

Tạo bước thay đổi căn bản trong quản lý, phát huy giá trị di sản văn hóa

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại phiên họp.
(PLVN) - Sáng 17/4, tiếp tục chương trình làm việc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi). Khẳng định dự án Luật đủ điều kiện trình QH tại Kỳ họp thứ 7 tới, Chủ tịch QH Vương Đình Huệ kỳ vọng dự án Luật khi được thông qua sẽ tạo bước thay đổi căn bản trong quản lý, phát huy giá trị di sản văn hóa.

Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm, tặng quà gia đình chính sách TP Điện Biên Phủ

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn công tác thăm khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ.
(PLVN) - Nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024), ngày 16/4, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng Đoàn công tác Trung ương đã đến dâng hương tại Khu tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp và tặng quà các gia đình chính sách trên địa bàn xã Mường Phăng và xã Pá Khoang (TP Điện Biên Phủ).

Đảm bảo tính chặt chẽ khi cải cách hoạt động quản lý dược

Bộ trưởng Đào Hồng Lan trình bày tờ trình tại phiên họp.
(PLVN) -  Chiều 16/4, tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, các đại biểu cho rằng việc cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý dược cần gắn với cơ chế, điều kiện bảo đảm thực hiện hậu kiểm, đảm bảo kiểm soát được chất lượng thuốc được lưu hành, nhất là việc cắt giảm thủ tục liên quan đến quảng cáo thuốc.