“Thực ra trong dự thảo luật vẫn tồn tại khái niệm học phí, chỉ khác là trước đây vấn đề học phí được quy định trong Luật phí và lệ phí, và khi gọi là học phí thì cơ chế tính học phí đó chủ yếu trên cơ sở khả năng đóng góp của người học và sự đầu tư của ngân sách để có thể duy trì được giáo dục như vậy. Hiện nay vẫn có thể nói là học phí nhưng cơ chế tính học phí được tính theo cơ chế tính giá dịch vụ đào tạo và được quy định trong Luật giá”, bà Phụng lý giải.
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo. |
Theo Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học, phải thay đổi cơ chế tính giá dịch vụ đào tạo là bởi Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương thực hiện tự chủ đại học và bình đẳng công - tư.
Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước hạn chế cũng đặt ra yêu cầu cần phải đầu tư có mục đích, có trọng điểm hơn vào giáo dục.
“Ví dụ như trong dự thảo đã xác định ngân sách chủ yếu đầu tư cho các trường chất lượng cao, đẳng cấp quốc tế và trở thành những trường đầu tầu kéo theo cả hệ thống hoặc là ở những ngành trọng điểm, hoặc ở những vùng trũng, vùng khó khăn hay những ngành học mà thị trường không giải quyết được. Còn khi các trường được tự chủ thì tất cả phần người học phải đóng tiền tính theo cơ chế tính giá dịch vụ được quy định trong luật Giá”, bà Phụng nói thêm.
Vẫn theo Vụ trưởng Vụ giáo dục đại học, về tên gọi thì Điều 65 của dự thảo Luật giáo dục đại học viện dẫn sang Điều 105 của Luật Giáo dục và Điều 105 quy định tên điều và nội dung vẫn quy định là học phí.
“Giá dịch vụ được quy định trong Điều 65 bao gồm rất nhiều thứ, trong đó quy định cho học phí thì được viện dẫn sang Điều 105 của Luật Giáo dục. Ngoài ra, Điều 65 còn quy định các thứ khác nữa như dịch vụ tuyển sinh... Học phí chỉ là một phần của điều đó thôi. Ở đây tôi khẳng định rằng với phần mà người học phải đóng cho các nhà trường để nhận được việc học thì vẫn được gọi là học phí chứ không thay đổi thuật ngữ này. Việc gọi là học phí cho thông dụng, dễ hiểu. Còn giá dịch vụ là muốn nói đến cơ chế tính trong điều kiện tự chủ chứ không phải là thay đổi thuật ngữ gọi”, bà Phụng nói thêm.
Bà Phụng nhấn mạnh, nếu hiện nay mà lại chỉ quy định là học phí và theo cơ chế tính như trước thì không thực hiện được tự chủ và không thực hiện được bình đẳng công tư.
“Khi chúng ta cho tách bạch trường công - tư được tính học phí theo cơ chế tính giá dịch vụ thì sẽ đảm bảo bình đẳng công tư. Thứ 2 là phân biệt chất lượng đào tạo của trường tốt và không tốt. Có những trường thu học phí cao vì chất lượng dịch vụ cao nhưng có những trường cũng là ngành đấy, cũng là bằng đó nhưng thu học phí thấp vì chất lượng dịch vụ của trường đó thấp. Như vậy, có 2 mức học phí khác nhau vì theo cơ chế tính giá dịch vụ, hàng tốt thì giá phải trả cao và ngược lại”, bà Phụng nói.
Về việc quản lý giá nếu thực hiện tính giá dịch vụ đào tạo, bà Phụng cho biết, hiện nay, học phí đặt dưới 2 góc độ.
“Thứ nhất là nhà nước quản lý thì ngay trong điều 65 của dự thảo Luật Giáo dục đại học đã quy định là dịch vụ do nhà nước đặt hàng sẽ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định giá và khung giá. Các trường công, tức các trường sử dụng tài sản nhà nước cho việc đào tạo của mình cũng được xác định theo cơ chế tính giá dịch vụ nhưng Nhà nước vẫn phải quy định về khung giá vì nó liên quan đến quyền lợi của người học, đến việc sử dụng tài sản nhà nước và liên quan đến chất lượng đào tạo”, bà Phụng cho biết thêm.
Còn đối với trường tư thì giá dịch vụ hay học phí hoàn toàn là do trường tư quyết định, Nhà nước không can thiệp vào vì ở đó còn có sự can thiệp của thị trường.
“Các nhà đầu tư sẽ phải cân nhắc xem mức mà họ đưa ra có tương xứng với dịch vụ đào tạo của họ hay không và thị trường có chấp nhận hay không. Căn cứ vào đó thì nhà đầu tư không thể đưa ra mức giá “trên giời” cũng không thể đưa ra mức giá quá thấp để “vơ bèo vạt tép” vì nếu như vậy thì họ sẽ không đủ nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo và người học cũng sẽ không mặn mà với nhà trường vì chất lượng đào tạo thấp”, bà nói thêm.