Báo Pháp luật Việt Nam trích đăng bài viết của Thượng tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam về quân đội với CTDV:
CTDV của quân đội được xác định là một bộ phận trong CTDV của Đảng; là một trong các chức năng cơ bản của quân đội; một nội dung quan trọng của công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội.
Trải qua gần 72 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Việt Nam luôn quán triệt và nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của CTDV đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt các giai đoạn cách mạng, quân đội luôn thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, tổ chức và tiến hành tốt CTDV, xứng đáng là quân đội của dân, do dân và vì dân. Đây là cội nguồn sức mạnh bảo đảm cho quân đội ta chiến đấu và chiến thắng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua, thông qua sự phối hợp, giúp đỡ hiệu quả của Ban Dân vận Trung ương và các ban, ngành, đoàn thể Trung ương; của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân các địa phương, CTDV của quân đội đã được triển khai toàn diện, rộng khắp, có bước phát triển mới cả về nội dung và hình thức, biện pháp tiến hành. Với phương châm hướng mạnh về cơ sở, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân đã chủ động phối hợp chặt chẽ với cơ quan dân vận của cấp ủy các cấp tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, trực tiếp tiến hành tốt các hoạt động tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đặc biệt các đơn vị quân đội, bộ đội biên phòng tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo.
Quân đội cũng luôn là lực lượng nòng cốt, đi đầu, có mặt kịp thời ở những nơi xung yếu, không quản ngại hiểm nguy để bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Các đơn vị quân đội luôn chủ động về kế hoạch phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, giúp nhân dân sơ tán, phòng tránh lụt bão; hỗ trợ kịp thời lương thực, thực phẩm, thuốc men, đồ dùng sinh hoạt, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống, khôi phục và phát triển sản xuất.
Thông qua các hoạt động thực tiễn, toàn quân đã tham gia giúp nhân dân hàng triệu ngày công lao động làm đường giao thông, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo; xây dựng “Nhà đại đoàn kết”, “Nhà tình nghĩa”, trường học, nhà văn hóa; đẩy mạnh các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; giúp đỡ các đối tượng chính sách, người nghèo và các hoạt động an sinh xã hội khác với tổng trị giá hàng nghìn tỷ đồng.
Nhiều mô hình CTDV mang lại hiệu quả to lớn, tạo hiệu ứng xã hội tích cực, có sức lan tỏa sâu rộng, như: Phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Hành trình Quân đội chung tay vì sức khỏe cộng đồng”, “Mái ấm cho người nghèo biên giới, hải đảo”, “Trái tim cho em”; khám, chữa bệnh miễn phí; thăm, tặng quà các đối tượng chính sách, người nghèo...
Có thể khẳng định, những thành tích, kết quả CTDV mà cán bộ, chiến sĩ toàn quân nỗ lực thực hiện và đạt được trong thời gian qua đã thiết thực góp phần củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp ở địa phương, từng bước ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường “thế trận lòng dân” vững chắc, đồng thời qua đó làm sáng đẹp phẩm chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ - Bộ đội của dân” trong thời kỳ mới.
Để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV và Chương trình phối hợp CTDV giữa Ban Dân vận Trung ương và Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, góp phần củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và quân đội, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, nắm vững các quan điểm của Đảng về CTDV được thể hiện tập trung trong Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết số 25-NQ/TW, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với CTDV trong tình hình mới”; các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng.
Trên cơ sở đó, chủ động phối hợp nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách về CTDV phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước và đặc thù hoạt động của quân đội; góp phần cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về CTDV. Trong đó, trọng tâm là cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, các nhiệm vụ, giải pháp vào từng nội dung, chương trình hoạt động CTDV phù hợp với từng địa bàn, địa phương, đơn vị.
Thượng tướng Lương Cường |
Vận động nhân dân và cán bộ, chiến sĩ thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do Trung ương và địa phương phát động. Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng sức, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của các đơn vị và địa phương.
Hai là, phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; năng lực và trách nhiệm của chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp đối với CTDV; gắn CTDV với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương; gắn hiệu quả CTDV với kết quả lãnh đạo của cấp ủy Đảng, trách nhiệm quản lý, điều hành của người chỉ huy; khắc phục biểu hiện xem nhẹ CTDV.
Tiếp tục đẩy mạnh tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, biên giới, biển, đảo…; góp phần tăng cường “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tăng cường phối hợp các lực lượng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội và trong xã hội. Các cấp ủy cần xác định rõ CTDV là một mặt hoạt động lãnh đạo, một nội dung công tác của cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị. Do đó, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo CTDV, cấp ủy các cấp phải luôn nhạy bén, sáng tạo, bám sát thực tiễn của địa phương, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên CTDV của cấp ủy, kết hợp với phân công cấp ủy viên phụ trách; gắn CTDV với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương; gắn hiệu quả CTDV với kết quả lãnh đạo của cấp ủy Đảng, trách nhiệm quản lý, điều hành của người chỉ huy.
Ba là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện CTDV, nhất là đối với các địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo; góp phần tham gia xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, có tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng, an ninh... đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chú trọng huy động hiệu quả sức mạnh của nhân dân và các lực lượng tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo của đất nước. Nâng cao chất lượng công tác nắm tình hình địa bàn, phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh từ cơ sở, không để phát sinh thành “điểm nóng”.
CTDV phải hướng mạnh về cơ sở, bám sát địa bàn, bám dân để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những đề xuất, kiến nghị chính đáng của nhân dân. Cấp ủy, chỉ huy các cấp nghiên cứu đề xuất những nội dung mới, hình thức mới phù hợp với đặc điểm tình hình đơn vị và địa bàn. Các đơn vị quân đội nâng cao hiệu quả hoạt động kết nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm CTDV, hoạt động của cán bộ tăng cường cơ sở, tổ CTDV...
Đổi mới cơ chế, nâng cao chất lượng hoạt động phối hợp giữa các đơn vị quân đội với cấp ủy, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp; huy động các lực lượng tham gia, tăng nguồn lực cho CTDV. Cần hết sức nhạy bén và chủ động phối hợp với cơ quan dân vận địa phương xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc; nâng cao hiệu quả hoạt động tham gia giúp dân xóa đói, giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; phòng, chống tội phạm, xây dựng địa bàn an toàn, làm chủ…
Bốn là, tăng cường công tác phối hợp, triển khai thực hiện ngày càng tốt hơn Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt” và các phong trào, các cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, tập hợp và phát huy sức mạnh của nhân dân thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.
Bồi dưỡng, phát triển và nhân rộng những mô hình, điển hình tiên tiến, cách làm hay, sáng tạo trong CTDV, phổ biến, nhân rộng, học tập trong toàn quân, toàn quốc. Thực hiện nghiêm Quy chế dân chủ cơ sở, phát huy sức sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ; xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, thực sự là những “điểm sáng” ở địa bàn đóng quân.
Năm là, chú trọng thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm CTDV theo tư tưởng, phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh - “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói”, “nói dân hiểu”, “hướng dẫn dân làm”, “làm dân tin”. Làm tốt công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ dân vận, lựa chọn cán bộ có kinh nghiệm, phẩm chất tốt, có trình độ nghiệp vụ để bố trí làm CTDV. Đây là nội dung có ý nghĩa chiến lược, lâu dài để quân đội tiếp tục thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác” trong giai đoạn cách mạng mới.
Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng cường cơ sở, nhất là cán bộ dân vận chuyên trách là con em đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các tôn giáo. Tăng cường đầu tư kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất cho CTDV; chú trọng sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận CTDV.