"Sa mạc hóa biển” là một thuật ngữ mới trong giới khoa học quốc tế để miêu tả khu vực mà tất cả sinh vật biển hoặc bị chết hoặc không sống được do điều kiện tự nhiên, chất lượng nước, cảnh quan biển có chất lượng kém. Đó là một thách thức mà Việt Nam - một quốc gia có đường bờ biển dài phải xem xét.
Nhiều nguyên nhân gây sa mạc hóa biển
Theo chuyên gia từ Tổng cục Biển & hải đảo, có 6 nguyên nhân gây nên hiện tượng “sa mạc hóa biển”. Đầu tiên phải kể đến biến đổi khí hậu làm nhiệt độ không khí và nước biển nóng lên, các chất dinh dưỡng nito và phốt pho, nồng độ ôxy hòa tan rất thấp trên tầng mặt biển, trong các khối nước và đáy biển, tạo tiền đề cho sự hình thành khu vực biển chết hay là sa mạc hóa biển.
Các hoạt động xả chất thải độc hại ra môi trường biển, gây phát thải khí nhà kính, ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia tăng nồng độ a xít trong biển, làm ngắt nguồn bổ sung dinh dưỡng, giảm đa dạng sinh học và làm gián đoạn chu kỳ của oxy, nito và photpho. Kết quả của hiện tượng a xít hóa đại dương gây hiện tượng san hô bị tẩy trắng, môi trường cư ngụ và sinh trưởng của các sinh vật biển bị biến đổi, chất lượng nước suy giảm, dễ bị tổn thương, cùng với sự biến đổi lượng chất dinh dưỡng thấp đã gây ra sa mạc hóa tại một số nơi.
Nguyên nhân thứ ba là do dòng hải lưu. Các khu sa mạc biển được hình thành ở độ sâu nằm ngay dưới lớp phân cách khối nước sâu và bên dưới của các dòng hải lưu có hình xoáy nước thuận và xoáy nghịch trên mặt biển. Sự trao đổi chậm chạp ranh giới xoáy với môi trường nước bên ngoài tạo ra các sa mạc biển vùng khơi chết, gây tác động trực tiếp tới hệ sinh thái biển khiến động vật phù du bị ức chế và chết bên trong các xoáy nước.
Thứ tư là do sự hủy diệt các hệ sinh thái biển quan trọng như hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái cỏ biển bằng các biện pháp thuốc nổ, hóa chất độc hại... dẫn đến mất nơi cư trú và sinh trưởng của các loài thủy hải sản. Thứ năm, do phát triển đô thị và các khu công nghiệp ven biển, gây ra lượng chất thải rắn, nước thải và khí thải rất lớn, phá vỡ chất lượng không khí, nước mặt và nước biển, đặc biệt là sự gia tăng các chất dinh dưỡng, dẫn tới hiện tượng phù dưỡng hay tảo nở hoa gây hại (thủy triều đỏ), làm cá và các loài sinh vật biển chết hàng loạt.
Nguyên nhân cuối cùng là do hoạt động vận tải biển bằng tàu thuyền tập trung quá nhiều tại một khu vực nhỏ, như khu vực gần cảng biển, cửa sông, hay gần khu bảo tồn biển, rạn san hô gây bùn hóa, đục hóa.
Xây dựng hệ thống giám sát trước nguy cơ biển bị sa mạc
Nhiều chuyên gia môi trường nhận định, nguyên nhân quan trọng gây “sa mạc hóa biển” là ô nhiễm vùng biển do các hoạt động sản xuất của con người. Các hoạt động công nghiệp, du lịch không được kiểm soát đã gây ô nhiễm, hủy diệt hệ sinh thái biển khơi.
Theo TS. Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo (Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam) để phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, an toàn sinh thái biển đảo, cần có những nghiên cứu, xác định nguồn gốc, cơ chế phát triển, phân bố, phân loại và xây dựng bản đồ sa mạc biển tại vùng biển ven bờ và ngoài khơi Việt Nam; đánh giá tác động môi trường, kinh tế xã hội và an ninh biển với các khu vực sa mạc biển, đặc biệt chú trọng các vùng biển giáp biên, vùng biển xa.
Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống giám sát, quản lý đặc biệt các vùng nguy cơ sa mạc biển; hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, phòng ngừa, cảnh báo sa mạc biển, nhất là phổ biến thông tin hiện tượng sa mạc hóa biển tới các cộng đồng dân cư ven biển, hải đảo và các tổ chức cá nhân liên quan, để họ hiểu rõ và chủ động hợp sức cùng nhau phòng tránh hiện tượng nguy hiểm này.
Hiện nay cả nước đã có 16 khu bảo tồn biển. Dù chiếm diện tích khiêm tốn (0,3% diện tích vùng biển), song nếu được quản lý tốt sẽ tạo ra cân bằng sinh thái trong toàn vùng biển. Đến năm 2020 sẽ tiếp tục quy hoạch mở rộng diện tích vùng biển được bảo tồn.
Dự báo. các khu bảo tồn biển sau 5 năm nếu quản lý tốt sẽ tạo ra hiệu ứng phục hồi trong khu bảo tồn biển và những năm sau đó sẽ xuất hiện hiệu ứng tràn (spillover effect), phát tán nguồn giống và dinh dưỡng ra khu vực biển xung quanh.