Theo đó, việc sàng lọc, chuẩn đoán và xử trí trước sinh đối với phụ nữ mang thai được thực hiện trên tinh thần tự nguyện, trừ trường hợp người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định tại khoản 2 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình (Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế).
Phụ nữ mang thai được tư vấn trước, trong và sau sàng lọc, chuẩn đoán, xử trí trước sinh. Việc sàng lọc, chuẩn đoán và xử trí trước sinh chỉ được thực hiện tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có giấy phép hoạt động và phạm vi chuyên môn kỹ thuật phù hợp.
Quy định về chấm dứt thai kỳ vì lý do dị tật bào thai được Thông tư quy định rõ: việc chấm dứt thai kỳ chỉ được xem xét khi có bất thường nghiêm trọng về hình thái, cấu trúc của bào thai, nguy cơ tàn phế cao; có bất thường nhiễm sắc thể; bào thai có bệnh di truyền phân tử do đột biến gen mà không có phương pháp điều trị đặc hiệu.
Việc chấm dứt thai kỳ vì lý do dị tật bào thai được xem xét khi có sự đồng ý bằng văn bản của người phụ nữ mang thai sau khi được cán bộ y tế tư vấn đầy đủ.
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có Giấy phép hoạt động và có phạm vi hoạt động chuyên môn được cấp có thẩm quyền phê duyệt về thực hiện các kỹ thuật chấm dứt thai kỳ phải tổ chức hội chuẩn các chuyên khoa liên quan để xem xét việc chấm dứt thai kỳ.
Thành phần tham gia hội chuẩn bao gồm bác sỹ chuyên khoa có ít nhất 5 năm kinh nghiệm thuộc các chuyên ngành: sản, nhi, tim mạch, chuẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm và giải phẫu bệnh lý. Người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh xem xét, quyết định chấm dứt thai kỳ vì lý do dị tật bào thai trên cơ sở kết luận sau hội chuẩn.