Cân nhắc thận trọng
Tại phiên họp, đa số các ĐB nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Thỏa thuận quốc tế nhằm tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về hội nhập quốc tế, nhất là sau khi ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đồng thời đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn nhu cầu ký kết thỏa thuận quốc tế, thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Tuy nhiên, một số đại biểu (ĐB) như ĐB Trần Văn Mão (đoàn Nghệ An), ĐB Nguyễn Thanh Xuân (đoàn Cần Thơ), ĐB Lê Xuân Thân (đoàn Khánh Hòa), ĐB Nguyễn Văn Quyền (đoàn Cần Thơ) bày tỏ băn khoăn về quy định mở rộng chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế đến UBND cấp huyện và UBND cấp xã, đề nghị ban soạn thảo cần cân nhắc kỹ lưỡng vì cơ sở pháp lý và các nguồn lực hiện nay chưa bảo đảm cho việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế đến các cấp này.
Các ý kiến ĐB cho rằng quy định này cần được cân nhắc thận trọng do hợp tác quốc tế luôn tiềm ẩn những vấn đề nhạy cảm về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh; đòi hỏi cơ quan, tổ chức tham mưu và chủ thể ký kết phải có năng lực nhất định, do đó không phải cơ quan, tổ chức nào cũng được trao quyền ký kết thỏa thuận quốc tế.
ĐB Xuân lo lắng về năng lực và am hiểu của các cấp huyện và cấp xã về thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là ở các lĩnh vực nhạy cảm dù Điều 23 của Dự Luật có quy định trình tự, thủ tục trước khi ký phải xin ý kiến cơ quan đối ngoại cấp tỉnh.
“Việc ký thỏa thuận chỉ là một phần của thỏa thuận, vấn đề triển khai và quản lý thực thi thỏa thuận cũng rất quan trọng, phải có năng lực mới làm tốt được công tác triển khai này. Vì thế, tôi đề xuất Ban soạn thảo cân nhắc thêm quy định chủ thể này sao cho phù hợp”, ĐB nói.
Các ĐB cũng cho rằng không nên phân cấp cho nhiều chủ thể ký kết thỏa thuận quốc tế vì dễ dẫn đến sự thiếu thống nhất giữa các địa phương, nhất là giữa các địa phương có chung đường biên giới với cùng một nước. Theo ĐB Đôn Tuấn Phong (đoàn An Giang), trong 10 năm thực hiện Pháp lệnh Thỏa thuận quốc tế, cấp huyện, xã đã ký 16 thỏa thuận, chỉ chiếm khoảng 0,8% tổng số thỏa thuận quốc tế được ký kết trong giai đoạn này.
Lo lắng xảy ra tranh chấp
Còn ĐB Trương Trọng Nghĩa (đoàn TP Hồ Chí Minh) nêu ý kiến về khả năng xảy ra các tranh chấp và xử lý tranh chấp sau khi ký kết thỏa thuận quốc tế. “Tôi rất băn khoăn khi mình cho ký nhiều quá, rộng quá có thể phát sinh nhiều vấn đề, hệ lụy và đặc biệt là tranh chấp, xung đột, kiện cáo. Tôi đề nghị đối với Nhà nước thì chỉ đến UBND tỉnh, có thể mở rộng đến các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh. Nếu như huyện và xã có thỏa thuận nào đó thì cũng nên để cho các UBND tỉnh đó ký”, ĐB kiến nghị.
Theo ĐB, các xã không đủ chuyên gia, có khi có những lợi ích thiết thực, người ta thấy hay quá đã trao đổi, nhận ứng hàng, ứng tiền… sau này không làm được, lại phát sinh kiện cáo rất phức tạp.
“Ngay cả những cơ quan nhà nước lớn hay doanh nghiệp nhà nước lớn cũng có khi có tranh chấp mới bắt đầu động đến vấn đề phí luật sư tư vấn… Chuẩn bị ký kết là phải có luật sư tư vấn, nhưng đa số trường hợp mình không có luật sư tư vấn ở giai đoạn này, rồi khi có tranh chấp, có kiện ở nước ngoài thì tiền đâu mà đi hầu kiện”, ĐB lo lắng.
ĐB Đỗ Ngọc Thịnh (đoàn Khánh Hoà) đề nghị quy định chi tiết hơn về khái niệm thỏa thuận quốc tế để phân biệt với hợp đồng dân sự và làm rõ hơn phạm vi điều chỉnh của luật. Cùng với đó, ĐB cũng đề nghị bổ sung thêm một số nội dung yêu cầu bắt buộc đối với thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư vì trên thực tế trong thời gian vừa qua đã phát sinh một số tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài.
Theo ĐB Thịnh, các tranh chấp này có thể phát sinh do cam kết của các địa phương đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong các thỏa thuận quốc tế được ký kết. Để tăng cường hơn nữa công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro đối với các thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư, ĐB đề nghị Luật cần quy định cụ thể một số nội dung yêu cầu bắt buộc trong thỏa thuận quốc tế liên quan đến đầu tư, đặc biệt đối với các thỏa thuận quốc tế là bảo lãnh Chính phủ bao gồm điều kiện tiên quyết để được ký thỏa thuận quốc tế; các trường hợp cho phép bên ký kết Việt Nam được quyền chấm dứt thỏa thuận quốc tế; tài sản bảo đảm về quyền truy đòi.