Đối tượng dễ mắc bệnh
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, do virus quai bị (Mumps virus) thuộc họ Paramyxoviridae gây nên. Bệnh quai bị lây theo đường hô hấp và dễ lây nhất từ 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý. Quai bị thường được bắt gặp ở lứa tuổi học đường. Hơn 80% trường hợp mắc quai bị xảy ra ở trẻ em dưới 15 tuổi, thường gặp nhất là trẻ từ 6-10 tuổi. Người lớn cũng có thể bị mắc bệnh nếu không tiêm vắc xin ngừa bệnh trước đó. Trẻ dưới 2 tuổi và người cao tuổi rất hiếm bị bệnh.
Nguồn bệnh là những người đang mắc quai bị cấp tính. Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp, chủ yếu do tiếp xúc với các giọt nước bọt, hoặc các giọt chất tiết mũi họng của người bệnh bị văng ra khi người bệnh ho hoặc chảy mũi. Người mắc quai bị có thể lây lan cho người khác 1 tuần trước khi sưng tuyến mang tai và kéo dài 2 tuần sau khi sưng tuyến mang tai. Thời gian lây mạnh nhất vào khoảng 2 ngày trước khi viêm tuyến mang tai.
Virus này có thể tồn tại khá lâu ở bên ngoài cơ thể. Ở nhiệt độ 15 - 200 độ C, virus này có thể tồn tại khoảng 30-60 ngày và sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng ở nhiệt độ trên 560 độ C hoặc dưới tác động của các hóa chất diệt khuẩn.
Theo tìm hiểu, bệnh quai bị thường xảy ra vào mùa đông-xuân, cao điểm là từ tháng 12 đến tháng 2 hàng năm.
Bệnh quai bị tuy lành tính nhưng có khả năng gây biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới hoặc viêm buồng trứng ở nữ giới, có thể dẫn đến vô sinh.
Triệu chứng của bệnh
Bệnh quai bị nhiều thể nhưng thường được phân loại theo vị trí tổn thương, gồm “Viêm tuyến nước bọt mang tai, Viêm tinh hoàn”. Ngoài 2 thể trên, bệnh quai bị có thể gặp thể viêm buồng trứng, viêm màng não, viêm não, viêm cơ tim, tuy nhiên ít gặp trên lâm sàng.
Viêm tuyến nước bọt mang tai: Là thể điển hình hay gặp nhất, chiếm 70% các thể có khu trú rõ. Thời gian nung bệnh trung bình từ 18-21 ngày. Khởi phát bệnh người bệnh sẽ bị sốt 38-39 độ C, đau đầu, đau mỏi toàn thân, ăn, ngủ kém. Giai đoạn toàn phát: Sau sốt 24 - 48 giờ sẽ xuất hiện viêm tuyến mang tai. Lúc đầu sưng một bên, sau 1-2 ngày sưng tiếp bên kia (thường sưng cả 2 bên, ít gặp sưng chỉ 1 bên). 2 bên sưng thường không đối xứng (bên sưng to, bên sưng nhỏ). Da vùng má bị sưng căng, bóng, không đỏ, ấn không lõm, sờ nóng, đau, nước bọt ít, quánh. Giai đoạn lui bệnh: Người bệnh thường hết sốt sau 3-4 ngày, tuyến nước bọt mang tai hết sưng trong vòng 8-10 ngày, hạch sưng kéo dài hơn tuyến một chút. Đa số bệnh tự khỏi trong vòng 10 ngày (nếu không có biến chứng).
Viêm tinh hoàn: Là thể thường gặp thứ 2 sau viêm tuyến nước bọt mang tai. Hay gặp ở nam giới đang tuổi dậy thì hoặc đã trưởng thành (khoảng 10-30% trường hợp mắc bệnh quai bị). Viêm tinh hoàn thường bị 1 bên, ít gặp cả 2 bên, thường xuất hiện sau viêm tuyến nước bọt và khi các triệu chứng viêm tuyến nước bọt đã dịu đi. Thường vào ngày thứ 5 đến thứ 10 của bệnh thấy sốt xuất hiện trở lại hoặc sốt tăng lên. Có thể buồn nôn, nôn. Tinh hoàn đau, nhất là khi đi lại và to gấp 2-3 lần bình thường, sờ thấy chắc, da bìu có thể nề, căng đỏ. Trong những trường hợp nặng có thể kèm thêm viêm thừng tinh, viêm mào tinh hoàn và tràn dịch màng tinh hoàn.
Hiện nay, bệnh quai bị chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nguyên tắc điều trị bệnh chủ yếu là điều trị triệu chứng và biến chứng.
Bệnh nhân mắc quai bị sau khi có biểu hiện bệnh cần cách ly tối thiểu 2 tuần, nằm nghỉ ngơi tại chỗ, hạn chế vận động, ăn thực phẩm lỏng trong những ngày đầu. Thông thường, mất khoảng 10 ngày để bệnh nhân khỏi bệnh và miễn dịch suốt đời với bệnh quai bị.
Acetaminophen hoặc ibuprofen có thể giúp giảm sốt và giảm đau. Lưu ý không dùng aspirin cho trẻ nhỏ bởi nguy cơ có thể mắc phải hội chứng Reye.
Có thể xoa dịu cơn đau bằng cách chườm lạnh lên hàm và hạ sốt bằng việc đắp khăn ấm. Uống nhiều nước hơn (tránh nước ép trái cây vì kích thích sản xuất nước bọt, có thể gây đau), súc miệng bằng nước muối ấm.
Cách ly người bệnh với người lành. Cả người chăm sóc và người bệnh cần đeo khẩu trang y tế đúng tiêu chuẩn để hạn chế lây lan virus.
Phòng bệnh
Để chủ động phòng bệnh quai bị, cần thực hiện tốt các biện pháp sau: Thường xuyên rửa tay với xà phòng, bảo đảm vệ sinh nhà ở, lớp học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ, đặc biệt là đường hô hấp, thường xuyên đeo khẩu trang để tránh những viêm nhiễm gây nên bệnh quai bị. Khi có người bị bệnh phải cho nghỉ tại nhà để cách ly (khoảng 10 ngày), tránh lây lan cho người khác. Khi có người bị bệnh hoặc nghi ngờ bị bệnh phải đến ngay cơ sở y tế để được khám, tư vấn, xử trí kịp thời, đặc biệt là với những trường hợp bị khó nuốt, khó thở, viêm tinh hoàn.
Biện pháp phòng ngừa có hiệu quả nhất bệnh quai bị là tiêm vắc xin phòng bệnh, bắt đầu từ 12 tháng tuổi trở lên, để cơ thể miễn dịch với bệnh quai bị trong một thời gian dài hoặc có thể suốt đời. Trường hợp những người đã tiếp xúc với bệnh nhân mắc quai bị mà chưa tiêm vắc xin phòng quai bị thì cần phải tiêm ngay để có thể bảo vệ bản thân tránh lây nhiễm. Lưu ý cần tiêm vắc xin phòng quai bị không quá 72 giờ sau khi tiếp xúc với người mắc bệnh.
Bệnh quai bị ở người lớn tuy ít gặp nhưng thường có nguy cơ nặng và có nhiều biến chứng hơn trẻ em. Các biến chứng có thể gặp phải như:
Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn
Với người sau tuổi dậy thì mắc bệnh quai bị, biến chứng này có tỷ lệ 20-35%, thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày hoặc xuất hiện trước hoặc đồng thời.
Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày. Khoảng 50% số trường hợp tinh hoàn bị teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng, dẫn đến vô sinh.
Nếu có biểu hiện viêm tinh hoàn, cần đến ngay cơ sở y tế để kiểm tra và điều trị. Trong trường hợp khả năng sinh tinh khó phục hồi, bệnh nhân có thể đến các bệnh viện chuyên khoa điều trị vô sinh để được lưu trữ tinh trùng khi chất lượng tinh trùng chưa giảm nhiều.
Viêm buồng trứng
Biểu hiện đau bụng, rong kinh, có tỷ lệ 7% ở nữ giới sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh.
Với phụ nữ mang thai, việc mắc quai bị có thể gây sảy thai, sinh non hoặc thai chết lưu trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Nhồi máu phổi
Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến. Một vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng có thể dẫn đến hoại tử mô phổi.
Viêm tụy
Viêm tuỵ là một biểu hiện nặng của quai bị, có tỷ lệ mắc là 3-7%. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, buồn nôn, có khi tụt huyết áp.
Các tổn thương thần kinh
Tỷ lệ quai bị gây ra biến chứng viêm não là 0,5%. Bệnh nhân có các hiện tượng như: Người bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, thị giác... Tổn thương thần kinh sọ não có thể dẫn đến điếc, giảm thị lực, viêm đa rễ thần kinh.
Biến chứng khác
Viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm cơ tim, viêm thần kinh thị giác, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi...