Một năm nhìn lại, ông có đánh giá như thế nào về MTKD của Việt Nam năm 2018?
- Đa số các doanh nghiệp (DN) theo khảo sát của VCCI gần nhất đều cảm nhận MTKD của Việt Nam trong năm 2018 đã có sự chuyển biến tích cực. Một số dẫn chứng có thể kể ra là:
Việc cắt giảm điều kiện kinh doanh (ĐKKD) có nhiều tín hiệu tích cực, đa số các bộ ngành hoàn thành vượt yêu cầu cắt giảm và đơn giản hoá tối thiểu 50% ĐKKD tính đến ngày 31/10/2018. Tuy nhiên kết quả khảo sát cho thấy, vẫn có 58% DN đang phải xin các loại giấy phép kinh doanh có điều kiện và 42% DN trong số đó cho biết họ gặp khó khăn khi xin phép.
Việc cải cách kiểm tra chuyên ngành (KTCN) có tiến bộ. Điểm sáng nhất là Nghị định 15/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định 38/2012/NĐ-CP về hướng dẫn Luật An toàn thực phẩm. Tuy nhiên, tính đến tháng 9/2018 mới chỉ có 68 thủ tục KTCN có thể thực hiện được trên Cổng thông tin một cửa quốc gia, và cũng mới có một thủ tục (khai báo hoá chất) là thực hiện điện tử hoàn toàn, các thủ tục khác vẫn nộp thêm bản giấy.
|
Ông Vũ Tiến Lộc |
Thủ tục đăng ký kinh doanh có nhiều chuyển biến tích cực, được xem là lĩnh vực đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) nhưng theo kết quả khảo sát, bình quân cả nước mới có 13% được thực hiện trực tuyến.
Thủ tục cấp giấy phép xây dựng đã bước đầu liên thông với thủ tục phòng cháy chữa cháy, nhưng mức độ liên thông vẫn còn thấp.
Việc nộp thuế của DN đã thuận lợi hơn rất nhiều, chủ yếu do ứng dụng CNTT. Tuy nhiên, tình trạng quy định pháp luật thuế thiếu rõ ràng, gây ra cách hiểu không thống nhất giữa DN và cơ quan thuế vẫn còn nhiều.
Thủ tục đăng ký bất động sản mặc dù có cải thiện, nhưng còn đơn lẻ, chưa có sự liên kết, phối hợp với thủ tục về xây dựng, công chứng, nộp thuế.
Cải cách thủ tục hành chính (TTHC) tại nhiều địa phương có tiến bộ, song việc triển khai thủ tục trực tuyến vẫn chậm và có nhiều trục trặc.
Cơ chế một cửa đang phát huy hiệu quả tốt ở nhiều địa phương. Công tác tổ chức đối thoại giữa chính quyền tỉnh và DN được phát huy tốt. Mô hình “cà phê doanh nhân” được nhiều DN hoan nghênh. Tuy vậy, các mô hình trên vẫn chưa được lan tỏa rộng khắp và thực chất.
Công tác thanh, kiểm tra có chuyển biến tích cực, tỷ lệ DN bị thanh kiểm tra từ hai lần giảm từ 48% xuống 40%, tỷ lệ DN cho biết có sự trùng lặp về nội dung giữa các cuộc thanh kiểm tra từ 24% giảm còn 14% chỉ sau một năm. Điều này cho thấy Chỉ thị 20 chấn chỉnh công tác thanh tra kiểm tra mà Thủ tướng Chính phủ ban hành tháng 5/2017 đã phát huy tác dụng.
Như vậy, chúng ta đã thấy có rất nhiều sự cải thiện, nhưng vẫn chưa đạt được như kỳ vọng của DN. Đáng chú ý, mức độ chuyển biến không đồng đều, có sự chênh lệch khá lớn giữa các lĩnh vực và địa phương. Do vậy không gian cải cách vẫn còn rất lớn…
Vậy tới đây, nhất là trong năm 2019, theo ông, cải cách nên tập trung vào lĩnh vực nào?
- Đúng là Việt Nam đã làm được nhiều việc trong cải thiện MTKD, nhưng tốc độ thay đổi vẫn chưa đạt yêu cầu. Chẳng hạn, trong Doing Business 2019 mà Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố, Việt Nam dù tăng so với chính mình, điểm tổng của Việt Nam tăng từ 66,77 lên 68,36, bốn năm gần đây đều liên tục tăng điểm trong Doing Business, nhưng mức độ thay đổi này vẫn còn chậm so với các quốc gia khác.
Năm vừa qua Việt Nam được WB ghi nhận có ba cải cách lớn trong lĩnh vực gia nhập thị trường, thuế và thực thi hợp đồng; nhưng so với năm 2017 Việt Nam được ghi nhận tới 5 cải cách; nghĩa là năm qua giảm đến hai cải cách. Và trong năm nay, Trung Quốc được ghi nhận có bảy cải cách, Malaysia được ghi nhận sáu cải cách và thứ hạng hai quốc gia này đang cải thiện rất ấn tượng trong bảng xếp hạng năm nay.
Nếu so sánh trong khu vực ASEAN thì Việt Nam vẫn chưa lọt được vào top bốn nước đứng đầu. Với vị trí 69, Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá xa so với Singapore (thứ 2), Malaysia (thứ 15) hay Thái Lan (thứ 27). Đặc biệt nếu so sánh với 10 quốc gia khác trong Hiệp định Đối tác Tiến bộ và Toàn diện Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì Việt Nam là quốc gia đứng cuối cùng, sau cả Peru hay Chilê.
Và đáng lưu ý, điểm số và thứ hạng của 10 chỉ số thành phần của Doing Bussiness năm nay thì chỉ có bốn lĩnh vực tăng thứ hạng, 5 lĩnh vực tăng điểm số. Như vậy, để thứ hạng Việt Nam tăng mạnh mẽ hơn nữa thì cần có sự chuyển động đồng đều và mạnh mẽ của tất cả các ngànhvà lĩnh vực.
|
Năm 2018, việc cắt giảm đăng ký kinh doanh có nhiều tín hiệu tích cực |
Trước thực trạng như nêu trên, VCCI đề xuất giải pháp gì, thưa ông?
- Về cắt giảm ĐKKD và KTCN, trong quá trình cắt giảm hiện đang nảy sinh vấn đề chưa thống nhất về tiêu chí xác định quy định nào cắt bỏ hay giữ lại. Ví dụ, có Nghị định bỏ các ĐKKD yêu cầu kinh nghiệm hoặc bằng cấp của nhân lực, nhưng lại có Nghị định khác vẫn duy trì. Một ví dụ khác là có lĩnh vực đã sử dụng tiêu chí về lịch sử tuân thủ của một loại hàng hoá để giữ lại/loại bỏ trong danh mục hàng hoá KTCN, trong khi ở lĩnh vực khác lại không sử dụng biện pháp này. Do đó, cần sớm có tiêu chí thống nhất về tiêu chuẩn của ĐKKD để bảo đảm hiệu quả và nhất quán.
Về cải cách TTHC, chúng tôi hoan nghênh Bộ Xây dựng là bộ đầu tiên thành lập trung tâm một cửa cấp bộ. Mô hình này cần được nhân rộng.
Cần nghiên cứu các phương án liên thông tối đa các TTHC thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan khác nhau. Theo đó, DN chỉ cần nộp hồ sơ tại một cơ quan nhà nước, cơ quan đó có trách nhiệm phải chuyển hồ sơ cho các cơ quan khác theo yêu cầu. Cho phép DN làm nhiều thủ tục đồng thời, hạn chế tối đa việc phải hoàn thành xong thủ tục này mới được làm thủ tục khác. Tăng cường cơ chế giám sát, theo dõi, đánh giá cán bộ tiếp nhận và xử lý TTHC.
Về tổ chức đối thoại, công tác tổ chức đối thoại nên giao cho các hiệp hội DN chuẩn bị về mặt nội dung cũng như mời DN đến tham dự đối thoại. Cần nghiên cứu để có cơ chế giải quyết vướng mắc của DN một cách hiệu quả hơn. Cần có một cơ quan, tổ chức độc lập khách quan giám sát quá trình giải quyết, đồng thời cần có đánh giá công khai kết quả giải quyết vướng mắc từ các DN.
Về thanh kiểm tra, các tỉnh cần giao nhiệm vụ cho cơ quan thanh tra tỉnh làm đầu mối kiểm soát các hoạt động thanh kiểm tra DN trong tỉnh, kể cả các cuộc thanh kiểm tra của các bộ ngành Trung ương. Theo đó, mọi cuộc thanh tra theo kế hoạch phải được thông báo trước cho cơ quan thanh tra tỉnh để sắp xếp và bố trí nhằm đạt ba mục tiêu: Giảm số lần và thời gian thanh, kiểm tra; Không thanh, kiểm tra trùng lặp; Tăng tối đa số đoàn liên ngành, thay vì mỗi đơn vị tiến hành riêng lẻ, áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra. Đây cần phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm của các bộ ngành, chứ không thể chỉ dừng lại ở giai đoạn nghiên cứu, cân nhắc áp dụng như hiện nay.
Về minh bạch thông tin, các bộ, ngành và địa phương cần tiếp tục tăng cường công khai minh bạch thông tin trên website cơ quan chính quyền, đặc biệt là việc đăng tải đầy đủ các thông tin như các quy hoạch, kế hoạch phát triển của địa phương, các dự án đầu tư công, đấu thầu, các dự án kêu gọi đầu tư, các dự án đối tác công tư. Những thông tin về phản hồi, đánh giá, phản ánh vướng mắc kiến nghị, khiếu nại của DN cũng cần được chú ý đăng tải, ví dụ như đánh giá mức độ hài lòng của người dân và DN về các TTHC của địa phương. Ngoài ra, danh sách các đối tượng bị thanh, kiểm tra theo kế hoạch cũng cần được đăng tải trên website của các cơ quan nhà nước.
Lĩnh vực nào càng công khai, minh bạch thì lĩnh vực đó càng được ghi nhận cải cách. Năm ngoái lĩnh vực thuế và bảo hiểm xã hội tăng đột phá 81 bậc do những cải cách ứng dụng CNTT trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Năm nay việc công khai các bản án kinh tế của toà án trên mạng được ghi nhận là một cải cách quan trọng và chỉ số thực thi hợp đồng đã chuyển động tích cực sau nhiều năm bất động. Lĩnh vực thành lập DN cũng được đánh giá cao bởi việc ứng dụng CNTT và đăng tải công khai trên mạng. Chính vì vậy, Việt Nam cần mạnh mẽ hơn nữa trong ứng dụng CNTT vào tất cả các ngành, các lĩnh vực.
Xin cảm ơn ông!