Cụ thể những nội dung nhân dân thụ hưởng
Theo đó, đến hết tháng 12/2020, Ban Thường trực và Trung ương các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện và hoàn thành 10 nội dung giám sát theo kế hoạch và 1 nội dung phát sinh mới. Trong các nội dung này có việc giám sát Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn và giám sát thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
Trong năm 2020, Ban Thường trực đã tổ chức nghiên cứu, xem xét và kiến nghị, sửa đổi Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh). Qua nghiên cứu báo cáo của 63 tỉnh, thành phố và thực tiễn thực hiện Pháp lệnh cho thấy, Pháp lệnh đã tạo dựng cơ sở pháp lý trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, quy định cho người dân những quyền dân chủ thực sự. Đặc biệt, từ khi Hiến pháp 2013 được ban hành, nhiều quyền cơ bản của công dân đã thể chế hóa.
Bên cạnh những ưu điểm, một số quy định của Pháp lệnh cũng như quá trình thực hiện bộc lộ những hạn chế, vướng mắc nhất định. Điển hình là việc công khai để nhân dân biết có nơi còn hình thức, chưa phù hợp; việc tổ chức để dân bàn quyết định trực tiếp còn ít; công tác giám sát trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cần quy định cụ thể hơn…
Từ thực tế trên, Ban Thường trực đề nghị Quốc hội, Chính phủ sớm ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (Luật). Bởi theo quy định tại Điều 14 của Hiến pháp thì các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và phải do Luật quy định. Hơn nữa các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tế đòi hỏi có các quy định chặt chẽ và đồng bộ hơn để điều chỉnh mới bảo đảm hiệu quả, thực chất dân chủ ở cơ sở.
Dự thảo luật cần mở rộng phạm vi điều chỉnh, trong đó bổ sung những quy định về nội dung nhân dân thụ hưởng. Đây là những vấn đề cần được quan tâm, để bảo đảm mục tiêu xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì Nhân dân. Đồng thời, dự thảo Luật cần xác định cụ thể, kỹ lưỡng các chính sách sẽ được thể chế hóa theo hướng tăng cường hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp tại cấp cơ sở.
Đó là tăng số lượng các công việc mà cấp chính quyền cơ sở phải thông tin, thảo luận, tiếp thu các ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân; thể hiện vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, cũng như các cơ quan đại diện ở địa phương. Đặc biệt, cần thể chế hóa nội dung “dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực” trong dự án Luật.
Bên cạnh đó, cần có thêm các quy định về hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp để người dân thể hiện quan điểm, chính kiến - nhất là trước khi ban hành các quyết định hành chính của người đứng đầu cơ quan nhà nước ở địa phương. Khi người đứng đầu cơ quan nhà nước chưa làm tròn trách nhiệm, có sai phạm trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, người dân có quyền phản ánh và đối thoại, yêu cầu được giải trình và có chế tài xử lý cụ thể.
Ban Thường trực UBTW MTTQ Việt Nam cũng đề nghị Quốc hội, Chính phủ rà soát, đối chiếu với Luật Tiếp cận thông tin, Luật Trưng cầu ý dân, Luật An ninh mạng, các dự thảo Luật Tổ chức thi hành pháp luật, Luật Ban hành quyết định hành chính khi xây dựng dự thảo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở để bảo đảm sự đồng bộ, chặt chẽ tránh chồng chéo.
Đồng thời xác định, quy định rõ những nội dung thông tin nếu bị lộ, lọt sẽ đe dọa sự tồn vong của quốc gia, dân tộc mới thuộc bí mật nhà nước, bí mật quốc gia để trách bị lợi dụng vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của người dân cần được công khai, cung cấp thông tin kịp thời bằng các phương thức khác nhau để người dân được biết, được kiểm tra, được bàn.
Đề xuất bổ sung đối tượng được hỗ trợ do đại dịch
Trong kiểm tra việc giám sát thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, năm 2020, Ban Thường trực đã chủ động triển khai nhiều hoạt động đồng hành cùng Chính phủ, người dân trong việc khắc phục những thiệt hại do đại dịch Covid-19 gây ra, trong đó có nội dung giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/CP, Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg và Quyết định số 32/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với sự tham gia của MTTQ Việt Nam các cấp từ khâu lập danh sách, niêm yết công khai danh sách đến hình thức chi trả hỗ trợ.
Qua kiểm tra việc giám sát cho thấy, hệ thống MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đã kịp thời vào cuộc thực hiện các hoạt động giám sát; các địa phương cơ bản đã chi trả xong cho các nhóm đối tượng: Người có công và gia đình chính sách; hộ nghèo, hộ cận nghèo; đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.
Việc triển khai gói hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo đặc biệt của cấp ủy, chính quyền các cấp; các tầng lớp nhân dân, người lao động, doanh nghiệp nhận tiền hỗ trợ từ Chính phủ với tâm trạng phấn khởi, lạc quan, qua đó, củng cố thêm niềm tin vững chắc đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị…
Tuy nhiên, việc triển khai gói hỗ trợ thời gian đầu nhiều địa phương còn lúng túng; đội ngũ cán bộ cơ sở năng lực không đồng đều, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế nên việc rà soát, lập danh sách các đối tượng còn sai sót, dẫn đến chậm trễ chi trả; một bộ phận nhân dân nhận thức chưa đầy đủ về mục đích, ý nghĩa từ gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng của Chính phủ nên còn đòi hỏi, gây áp lực với cán bộ, công chức trực tiếp ở cơ sở; việc thẩm định các điều kiện để hỗ trợ các nhóm đối tượng người lao động gặp nhiều khó khăn…
Sau kiểm tra, giám sát, Ban Thường trực đã đề nghị Chính phủ xem xét bổ sung thêm một số đối tượng thụ hưởng gói hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, đó là người có công không hưởng trợ cấp thường xuyên, từ 80 tuổi trở lên; giáo viên mầm non tại các trường tư thục; giáo viên hợp đồng tại các trường công lập; người lao động cấp dưỡng trong các trường học; người đánh giầy, người cắt tóc, gội đầu, sửa chữa xe máy, thợ điện nước, thợ may; người vận chuyển hàng hóa, bốc vác ở địa phương không có cảng, chợ đầu mối; Hộ nghèo, hộ cận nghèo tính đến thời điểm 31/3/2020 (thay vì chỉ tính đến 31/12/2019).
Ngoài ra, sửa đổi điều kiện được vay vốn, điều kiện thụ hưởng như sau: quy định rõ thêm về gia cảnh của nhóm người lao động được hỗ trợ. Ví dụ người lao động có kinh tế gia đình khá giả, nhưng chỉ có tháng 4,5 bị giảm sâu thu nhập thì không được hỗ trợ.